Từ
đau khổ đến vui sướng
(Rôma 8)
Phần giới thiệu
Không
chút nghi ngờ, chương 8 sách Rôma là mức thủy triều cao nhất trong Tân Ước. “Spener đã nói rằng
nếu Kinh Thánh là một chiếc nhẫn, và thư Rôma là viên đá quí của chiếc nhẫn đó,
chương 8 sẽ là nét lóng lánh của món nữ trang ấy” [Quoted by F. Godet, Commentary on St. Phaolô ’s Epistle
to the Rôma (Grand Rapids:
Zondervan, 1969), p. 295].
Chúng
ta kiếm được manh mối cho tầm quan trọng của chương nầy bằng cách đối chiếu phần
kết luận của chương 7 với phần kết luận của chương 8. Chương 7 kết thúc với sự đau
khổ, với vị sứ đồ đang mô tả sự phấn đấu liên tục diễn ra ở bên trong khi ông nổ
lực sống một đời sống để đẹp lòng Đức Chúa Trời bằng sức lực của xác thịt. Phần
kết luận của chương 8 là một tiếng hô của ngợi khen và tin cậy, vì vị sứ đồ đã
công bố quyền tể trị của Đức Chúa Trời, không những trong sự cứu rỗi của ông, mà
còn trong sự nên thánh của ông nữa. Đúng là một chương rất vui vẻ. Chương nầy bắt
đầu bằng cụm từ: ‘chẳng còn có sự đoán phạt nào’
và nó kết luận với cụm từ: ‘chẳng có thể phân rẽ’.
Sự đắc thắng của Cơ đốc nhân tuyệt đối là chắc chắn, vì vấn đề đang nằm trong
hai bàn tay của Đức Chúa Trời.
Khi
tiếp cận với chương quan trọng nầy, tôi đã đưa ra quyết định phải giữ lấy cách
lý giải hiện có cho mỗi chương một tuần. Vì vậy, tôi đã quyết phân tích chương nầy
bằng kính thiên văn thay vì bằng kính hiển vi [Để
nghiên cứu sâu thêm về sách Rôma, hãy xem Rôma: Sự công bình của Đức Chúa Trời,
một loạt gồm 45 bài học bởi chính tác giả nầy trên trang web của chúng tôi ở www.bible.org]. Cả hai phần nghiên cứu đều rất có
giá trị. Phần nghiên cứu sách Rôma là việc làm giống như người kia vừa mua một
chiếc xe mới. Mặt khác, ông ta ao ước muốn tán thưởng chiếc xe như một tổng thể.
Ông đứng yên ngắm nghía nó. Ông lái nó qua nhà người hàng xóm, thích thú nơi
cách nhìn ngắm khâm phục của bạn bè mình. Nhưng mặt khác, ông ao ước muốn kiểm tra cẩn thận từng chi tiết
của chiếc xe. Ông ta xem xét kỹ bộ máy, từng con ốc. Ông ta phân tích chỗ nầy
chỗ kia, xem coi có sự bất toàn nào hay không!?! Vấn đề, ấy là bạn không thể
làm cả hai việc trong một lần đủ cả được.
Cũng
một thể ấy với Sách Rôma. Sự có ích lợi lớn khi cân phân từng lời, và phân tích
từng mệnh đề. Người ta có thể dành trọn cả đời trong quyển sách nầy mà không đặt
tới mức thu tóm được sự giàu có của nó. Nhưng mục đích của chúng ta trong phần
nghiên cứu sách Rôma nầy là nắm bắt được dòng bình luận của quyển sách. Mục
tiêu của chúng ta là nhìn vào ‘bức tranh lớn’. Trong khi nhận định mục tiêu nầy,
chúng ta sẽ nhắm vào phần bình luận cả chương giống như gắn bó với phần còn lại
của quyển sách. Chúng ta phải ổn định phần nghiên cứu các điểm nổi bật trong
cái mỏ vàng nầy của kho tàng thần học.
Với
điều nầy trong trí, chúng ta sẽ tiếp cận chương nầy với thắc mắc nầy trong trí:
Chúng ta tìm được điều gì trong Rôma 8 đã làm biến đổi tầm nhìn của Phaolô từ đau khổ thành
vui sướng vậy? Những câu 1-27 mô tả Đức Thánh Linh là nguồn của sự nên thánh, trong
khi các câu 28-39 quyết chắc với chúng ta về tính chắc chắn của sự nên thánh.
Nguồn của sự
nên thánh: Đức Thánh Linh (8:1-27)
Phaolô
đã chỉ ra rồi, hết thảy mọi người đều ở dưới sự phán xét của Đức Chúa Trời, vì
có sự khải thị cho thấy ai nấy đều đã chối bỏ (Rôma 1-3a). Mặc dù con
người hoàn toàn bất khả không kiếm được sự tiếp nhận của Đức Chúa Trời, Đức
Chúa Trời đã chu cấp sự công bình trong Thân Vị của Con Ngài, là Đức Chúa Jêsus
Christ, Ngài đã chịu chết trong chỗ của tội nhân, và Ngài cung ứng cho người
nào tin cậy nơi Đấng Christ với loại công bình của Đức Chúa Trời. Vì thế, một
người được xưng công bình bởi đức tin (Rôma 3b-5).
Tình trạng của người đang ở trong Đấng Christ đã được xưng công bình bởi đức
tin là do người thực thi, khi giữ lấy sự tuyên xưng của mình qua phép báptêm đã
chết đối với tội lỗi và đã sống lại với đời mới trong Đức Chúa Jêsus Christ (Rôma 6). Mặc dù đời sống tin kính là đời sống bắt buộc
cho Cơ đốc nhân, đời sống ấy cũng rất khó cho người khi phải sống bằng sức lực
của xác thịt. Giống như một người không thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời như một
người không tin Chúa bằng cách tuân giữ luật pháp, người cũng không thể làm vậy
trong vai trò một Cơ đốc nhân. Ấy chẳng phải luật pháp là xấu đâu, mà xác thịt
là yếu đuối và bị tội lỗi thắng hơn. Những gì Cơ đốc nhân muốn làm, người không
làm được; những gì người ghét, thì người lại làm (Rôma 7).
Sứ
điệp cụ thể của Rôma 8, ấy là Đức Chúa Trời không
hề dự trù cho con người phải sống đời sống Cơ đốc bằng những nổ lực riêng và bằng
sức riêng của mình. Sự tiếp trợ cho đời sống Cơ đốc nằm trong Thân Vị của Đức
Thánh Linh. Công tác của Đức Thánh Linh vì ích cho Cơ đốc nhân đã được mô tả
trong 27 câu đầu của chương nầy. Chúng ta sẽ quan sát chức vụ nầy của Đức Thánh
Linh trong bốn chiều kích:
Thánh Linh sự sống
và sự tự do (8:1-11)
Chiều
kích thứ nhứt trong công tác của Đức Thánh Linh được thấy trong các câu 1-11, ở
đây Ngài được mô tả là Thánh Linh sự sống và sự tự do:
“vì
luật pháp của Thánh Linh sự sống đã
nhờ Đức Chúa Jêsus Christ buông tha
tôi khỏi luật pháp của sự tội và sự chết” (Rôma 8.2).
“Lại
nếu Thánh Linh của Đấng làm cho Đức Chúa Jêsus sống lại từ trong kẻ chết ở
trong anh em, thì Đấng làm cho Đức Chúa Jêsus Christ sống lại từ trong kẻ chết cũng sẽ nhờ Thánh Linh Ngài ở trong anh em
mà khiến thân thể hay chết của anh em lại sống” (Rôma 8.11).
Nếu
tôi tóm tắt những gì Phaolô đang nói ở các câu 1-11, thì sẽ đại loại là như thế
nầy đây: Những gì Đức Chúa Jêsus Christ đã giành được bởi sự chết, sự chôn và sự
sống lại của Ngài, Đức Thánh Linh đem áp dụng qua chức vụ ở bên trong của Ngài
trong đời sống của Cơ đốc nhân. Những gì Đấng Christ đã đạt được cho chúng ta
theo địa vị, Đức Thánh Linh hành động trong chúng ta theo cách thực tiễn.
Chẳng
có sự đoán phạt nào mà Cơ đốc nhân còn phải sợ hãi nữa. Tại sao chứ? Vì tất cả
những tội lỗi của chúng ta, quá khứ, hiện tại và tương lai, đã được xử lý trên
thập tự giá ở đồi Gôgôtha. Thậm chí những tội lỗi mà chúng ta phạm phải trong
vai trò Cơ đốc nhân cũng được tha thứ. Nhưng còn hơn cả sự thực chúng ta đã được
giải phóng ra khỏi án phạt của tội lỗi, chúng ta cũng được giải phóng ra khỏi
quyền lực của nó nữa. Khi Luật pháp không có khả năng tạo ra sự công bình thích
nghi với sự yếu đuối của xác thịt, Đấng Christ đã chuộc chúng ta ra khỏi vòng
nô lệ cho Luật pháp bởi sự chết của Ngài. Giống như Phaolô đã minh hoạ bởi phần phân tích về hôn nhân
trong chương 7, chúng ta đã chết đối với Luật pháp trong Đấng Christ. Tội lỗi
không có quản trị trên chúng ta nữa. Những đòi hỏi của Luật pháp và của tội lỗi
trên Cơ đốc nhân đã được thoả mãn đầy đủ nơi sự chết có tính cách hy sinh của Đấng
Christ. Đây là mặt tiêu cực. Chúng ta đã chết đối với Luật pháp và đối với quyền
lực của tội lỗi trên chúng ta.
Ở
mặt tích cực, Đức Chúa Trời đã lập ra điều khoản cho Cơ đốc nhân làm phu phỉ những
đòi hỏi của Luật pháp qua quyền phép của Đức Thánh Linh. “Hầu cho sự công bình mà luật pháp buộc phải làm được trọn trong
chúng ta, là kẻ chẳng noi theo xác thịt, nhưng noi theo Thánh Linh” (Rôma 8.4). Những gì không hề đạt
được bằng sức lực của xác thịt — sự thoả mãn các tiêu chuẩn công bình của Luật
pháp — có thể đạt được bằng quyền phép của Đức Thánh Linh.
Xác
thịt không thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời (câu
8) vì một vài lý do:
(1) Trước nhất, xác thịt thù nghịch đối với Đức Chúa Trời: “vì sự chăm về xác thịt nghịch với Đức Chúa Trời, bởi nó không phục
dưới luật pháp Đức Chúa Trời, lại cũng không thể phục được” (Rôma 8.7).
(2) Xác thịt không thể tạo ra sự công bình. Đây là phần kết luận chắc
chắn mà chúng ta đã rút ra từ chương 7.
Giờ
đây Cơ đốc nhân có một sự lựa chọn, vì Đức Chúa Trời đã đặt Thánh Linh Ngài ở
trong mỗi Cơ đốc nhân, và Thánh Linh nầy là nguồn của sự tự do và của sự sống: “Về phần anh em, nếu thật
quả Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong mình, thì không sống theo xác thịt đâu, nhưng
theo Thánh Linh; song nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, thì người ấy
chẳng thuộc về Ngài” (Rôma 8.9). Một đặc điểm chung của tất cả các Cơ đốc nhân
thật, là sự thực họ đã được Đức Thánh Linh ngự ở trong lòng. Chúng ta không cần
phải nói trong thời buổi nầy về ‘việc nhận lãnh Đức Thánh Linh’ vì chúng ta đã nhận
lãnh Ngài rồi, nếu chúng ta là Cơ đốc nhân thật. Phaolô nói với Cơ đốc nhân: “Nếu bạn là một Cơ đốc
nhân thật, thì Đức Thánh Linh đang ngự ở trong bạn”.
Thêm
nữa, Đức Thánh Linh là Đấng ngự trong chúng ta là Linh ban sự sống. Ngài có quyền
trên sự chết. Phần đánh giá về quyền phép của Đức Thánh Linh có thể được thấy
trong sự thực Ngài là công cụ qua đó Đức Chúa Jêsus Christ đã được làm cho sống
lại từ kẻ chết (câu 11). Khi nhìn lại
xác thịt của chúng ta, khả năng tạo ra bông trái công bình của nó chỉ là sự chết.
Nhưng Đức Thánh Linh có quyền trên sự chết, Ngài có thể ban sự sống cho xác thịt
hay chết của chúng ta. Ngài có thể tạo ra trong chúng ta sự công bình mà Đức
Chúa Trời đòi hỏi nơi các thánh đồ của Ngài.
Thần trí của sự
làm con nuôi (8:12-17)
Khi
chúng ta đến với đề tài làm ‘con nuôi’ của Cơ đốc nhân, chúng ta đến với một đề
tài và đồng thời đến với một trong những lẽ đạo bị chễnh mãng nhất trong Tân Ước.
Mục sư J. I. Packer than phiền về tai hoạ nầy khi ông viết:
Thật là lạ lùng khi lẽ thật về sự làm con nuôi lại ít được quan
tâm đến trong lịch sử Cơ đốc. Trong hai quyển sách viết vào cuối thế kỷ, giờ đây
được biết là (Địa vị Cha của Đức Chúa Trời
do Mục sư R. S. Candlish viết,
Lẽ đạo làm con nuôi do Mục sư R. A.
Webb viết), chẳng có một điều gì là Tin lành được viết trong đó, cũng chẳng có
gì về Công cuộc Cải chánh được viết trong đó nữa [J. I. Packer, Knowing
God (Downers Grove: InterVarsity Press, 1973), p. 207. Chương ‘Con cái của Đức Chúa Trời’ của Packer (pp. 181-208) là phần lý giải nổi bật về lẽ đạo
làm con nuôi].
Mục
sư Packer cũng nhắc cho chúng ta nhớ rằng mặc dù lẽ đạo nói tới sự xưng công
bình là phước hạnh cơ bản và chủ yếu dành cho Cơ đốc nhân, đấy chưa phải là phước
hạnh cao nhất, phước hạnh được làm con nuôi [Ibid., p.
187]. Trong sự xưng công bình, chúng ta cần phải tuyên bố tình trạng vô
tội và công bình nhờ vào công tác của Đấng Christ. Trong khi làm con nuôi,
chúng ta được lập làm con cái của Đức Chúa Trời. Nếu sự xưng công bình khiến
cho chúng ta trở thành tôi tớ của Đức Chúa Trời, sự làm con nuôi khiến cho
chúng ta trở thành con cái.
Cho
phép tôi minh hoạ vấn đề theo cách nầy. Giả sử tôi là một tội phạm không thể sửa
đổi được, đang đứng ở vành móng ngựa trước mặt quan toà. Chỉ có một việc cho
quan toà là tuyên án tôi vô tội theo con mắt của luật pháp trên cơ sở những việc
làm sai trái của tôi đã được trả giá rồi. Nhưng đây sẽ là một việc quan trọng hơn
cho vị quan toà là khiến tôi trở thành con ruột của ông rồi đưa tôi về nhà để
trở thành một chi thể của gia đình ông. Đức Thánh Linh là nguồn của sự nên
thánh của chúng ta, trong đó Ngài là Linh của sự làm con nuôi. Đây là sức đẩy của
những câu 12-17.
Phaolô
báo cho chúng ta biết, chúng ta tuyệt đối không có một nghĩa vụ nào phải quay
trở lại với xác thịt trong cách ăn ở; thay vì thế nghĩa vụ của chúng ta là phải
bước đi theo Thánh Linh. Bước đi theo xác thịt tạo ra sự chết; bước đi theo
Thánh Linh, tạo ra sự sống (câu 13). Không
những Cơ đốc nhân được đánh dấu là người có Đức Thánh Linh ngự ở trong lòng (câu 9), nhưng ở câu 14 Cơ đốc nhân cũng
là người được Đức Thánh Linh dẫn dắt cho. Như Mục sư Warfield đã chỉ ra [“The Leading of the Spirit,” Biblical and Theological
Studies, Benjamin B. Warfield, (Philadelphia: Presbyterian and Reformed
Publishing Co., (1968), Supplement: Chapter III, pp. 543ff], sự dẫn dắt
nầy không đề cập nhiều đến sự hướng dẫn cá nhân trong văn mạch nầy như nó đề cập
đến quá trình của sự nên thánh. Mỗi Cơ đốc nhân đều được Thánh Linh ngự bên
trong và Đức Thánh Linh dẫn dắt. Cơ đốc nhân không thể tiếp tục sống theo xác
thịt với tư thế bằng lòng và khăng khăng mãi được.
Còn
hơn như thế nữa, Đức Thánh Linh ban cho chúng ta tâm tình của một người con chớ
không phải một tôi tớ: “Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của tôi mọi đặng còn ở trong
sự sợ hãi; nhưng đã nhận lấy thần trí [Tôi
nhất trí với văn mạch của bản Kinh Thánh NASB khi không viết hoa chữ
‘thần trí’ ở đây như Linh trong một số
chỗ khác (thí dụ, Dân số ký 5.14; II Timôthê 1.7), ý nói về ‘tính khí’. Mặc dù Đức Thánh Linh là nguồn của tính khí nầy, ở đây
Ngài không được xác định bằng chữ ‘thần
trí’. Chính văn mạch cũng làm cho sự nầy ra rõ ràng] của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha!” (Rôma 8.15).
Quan
niệm của Tân Ước về sự làm con nuôi là quan niệm rất khác biệt với quan niệm thịnh
hành ngày hôm nay:
Từ
ngữ ‘con nuôi’
nghe có vẻ giả tạo trong hai lỗ tai của chúng ta; nhưng vào thế kỷ đầu tiên
(SC) một đứa con nuôi là đứa con được chọn bởi người cha nuôi để làm cho danh của
người được ghi nhớ mãi mãi và kế tự sản của người; người tuyệt đối không thua
kém về địa vị đối với người con sanh ra theo tự nhiên bình thường, và nếm trải
tình cảm của người cha đầy đủ hơn và tái hiện lại tánh tình của người cha cách
xứng đáng hơn [F. F. Bruce, The Epistle of Paul to the Roma (Grand Rapids: Wm. B.
Eerdmans, 1963), p. 166. Cf. also J. I. Packer, Knowing God, p. 195].
Từ
ngữ ‘aba’,
[“Abba là một từ Aram (trong ‘địa vị được xem trọng’) đã được sử dụng
giữa vòng những người Do thái (và được sử
dụng cho tới ngày hôm nay trong những gia đình nói tiếng Hy bá lai) như từ
ngữ quen thuộc, bởi chữ đó, con cái nói với cha của chúng. Trong quyển “Abba,
Father”, Luther nói: ‘Đây chỉ là một từ ngắn thôi, tuy nhiên nó hiểu biết
mọi sự. Miệng không nói ra, nhưng tình cảm ở trong lòng thốt ra theo tư thế nầy.
Mặc dù tôi bị đau khổ và kinh khủng đè nặng từ mỗi phía, và dường như bị quên
lãng và bị quăng xa khỏi sự hiện diện của Ngài, tôi vẫn là con của Ngài, và
Ngài là Cha của tôi vì cớ Đấng Christ: tôi được yêu thương vì cớ Đấng Yêu Thương.
Dù từ nầy có nhỏ nhoi, Lạy Cha, nó cưu mang trong lòng đầy tình cảm, trổi hơn
tài hùng biện của Demosthenes, Cicero, và những diễn giả khoa trương nhất từng
sống ở trên thế gian. Từ nầy không thể thốt ra với nhiều lời lẽ, mà với sự mong
mỏi, những mong mỏi không thể được thốt ra bằng bất cứ lời lẽ hay tài hùng biện,
vì chẳng có lưỡi nào có thể thốt ra chúng được” (Galati 4. 6, phần dịch thuật của
Middleton), F. F. Bruce, pp. 166-167”] là từ ngữ gia đình rất thân quen
nói tới người cha mà một em bé sẽ dùng để nói chuyện với cha của nó. Có lẽ
chúng ta sẽ thấy chữ “bố” là tương đương với từ ngữ nầy.
Sức
mạnh trong từ ngữ của Phaolô ở đây, ấy là Đức Thánh Linh không những đưa chúng
ta vào trong gia đình của Đức Chúa Trời, mà Ngài còn bảo đảm và nhắc cho chúng
ta nhớ một cách liên tục về mối quan hệ nầy. Đức Thánh Linh dẫn sự chú ý của
chúng ta đến ‘gốc
rễ’ thuộc linh của chúng ta, vì chúng ta là ai có một cách quan tâm đến
việc chúng ta phải làm gì để mang lấy gốc rễ đó.
Đức
Thánh Linh bảo đảm với chúng ta về mối quan hệ mật thiết nầy trong địa vị làm
con theo hai cách. Thứ nhứt, Ngài đưa ra chứng cớ độc lập cho địa vị làm con của
chúng ta với một phương thức dựa theo kinh nghiệm và viễn vông trong mô tả. Thứ
hai, Ngài dẫn ra chứng cớ về thần trí con người của chính chúng ta, rằng chúng
ta là con cái của Đức Chúa Trời (câu 16).
Sự thuyết phục thần trí của chúng ta chắc chắn sẽ gắn bó với Kinh Thánh, với đời
sống tin kính của chúng ta, và với những chứng cớ và bông trái của Đức Thánh
Linh trong đời sống của chúng ta. Không cần phải nói, sự nhận biết của chúng ta
về phần làm chứng nầy sẽ khác biệt ở cường độ vào những thời điểm khác nhau
trong kinh nghiệm của chúng ta [“Ông viết: sự làm chứng
của thần trí chúng ta, trở thành một thực tại giống như ‘Đức Thánh Linh vùa giúp chúng ta biết chắc về địa vị làm con của mình,
do sự biết chắc ấy, và sự khám phá nơi bản thân mình, những dấu hiệu thật về thể
trạng đã được dựng nên mới’. Đây là sự bảo đảm theo cách luận suy, là một kết
luận rút ra từ sự thực một người biết rõ Tin Lành, tin cậy Đấng Christ, làm ra
những việc phù hợp với sự ăn năn, rồi tỏ ra bản năng của một người được tái
sanh.
“Nhưng [Haldane
tiếp tục] nói rằng mọi sự nầy đã được xác định bởi sự làm chứng của Đức Thánh
Linh, sẽ là thiếu sót trong những gì đã được khẳng định trong phân đoạn Kinh
Thánh nầy; vì trong trường hợp ấy Đức Thánh Linh sẽ giúp cho lương tâm trở
thành một chứng nhân, nhưng không thể nói chính mình Ngài trở thành một chứng
nhân … Đức Thánh Linh chứng thực cho thần trí của chúng ta với tư thế làm chứng
liên đới. Phần làm chứng nầy, mặc dù không thể giải thích nó được, tuy nhiên người
tín đồ cảm nhận được; người tin Chúa cảm nhận được sự làm chứng ấy với nhiều biến
đổi của nó, đôi lúc mạnh mẽ hơn và có thể sờ mó được, và có nhiều lúc lờ mờ và
khó phân biệt được … Thực tại của nó đã được
chỉ ra trong Kinh Thánh bởi những từ ngữ ấy như những từ ngữ nói tới Đức Chúa
Cha và Đức Chúa Con đang đến cùng chúng ta, và lập nơi ở với chúng ta — Đấng Christ đang bày tỏ chính mình Ngài ra cho chúng ta, và đang ăn tối cùng chúng ta — Ngài ban cho
chúng ta mana kín giấu và hòn đá màu trắng, chỉ ra mối tương giao
với chúng ta, và một danh mới được viết
ra, không ai biết được trừ ra người nào nhận lãnh danh ấy. ‘Tình yêu thương của Đức Chúa Trời rãi khắp trng lòng chúng ta bởi Đức
Thánh Linh, là Đấng đã được ban cho chúng ta’ (Rôma , p. 363).” J. I.
Packer, Knowing God, pp. 205-206].
Thần trí của sự
trông cậy (8.18-25)
Trở
nên con cái của Đức Chúa Trời cũng là trở nên kẻ kế tự, và vì thế phần bàn luận
của Phaolô về chức vụ của Đức Thánh Linh liên quan tới sự làm con nuôi của
chúng ta như con ruột dễ dàng nhận lãnh sự trông cậy về các phước hạnh trong tương
lai mà chúng ta có trong vai trò con cái của Đức Chúa Trời. Đời sống Cơ đốc rõ
ràng là không có một cái giường toàn hoa hồng, chẳng có một con đường nào trải đầy
hoa đâu. Đây là một đời sống đau khổ, một cuộc sống đầy phấn đấu. Những đau khổ
nầy, Phaolô nói cho chúng ta biết, không thể sánh với sự vinh hiển hầu đến (câu 18). Đức Thánh Linh là Linh của hy
vọng vì Ngài bảo đảm với chúng ta rằng sự vinh hiển lớn lao kia đang chờ đợi
chúng ta.
Chúng
ta không cô độc trong sự chịu khổ và phấn đấu nầy. Khi Ađam sa ngã, tất cả loài
thọ tạo đều phải chịu khổ trong dấu vết tội lỗi của ông. Tất cả loài thọ tạo đều
phải phục theo sự hư không và thất vọng (câu
20). Tất cả loài thọ tạo đang than vãn và chờ đợi trong lo âu sự phục hưng
lại muôn vật. Chắc chắn đây là phần giải thích cho nan đề thế giới của chúng ta
đang đối diện với lãnh vực sinh thái học. Tất cả loài thọ tạo đều chịu khổ từ tội
lỗi của loài người. Chúng ta vắt cạn những khu mỏ và tài nguyên có cần mà chẳng
chút quan tâm đủ cho tác dụng của mọi hành động của chúng ta đối với môi trường.
Chúng ta làm ô uế môi trường với rác rưỡi của chúng ta. Không có gì phải ngạc
nhiên khi cõi thọ tạo phải than vãn.
Mặc
dù chúng ta phấn đấu để thể hiện quyền quản trị của chúng ta trên cõi thọ tạo với
tư thế nhiều trách nhiệm hơn, toàn bộ sự phục hồi sẽ không xảy ra cho đến khi
chính mình Đức Chúa Trời sửa chữa lại địa cầu không còn rác rưỡi của tội lỗi và
sự ích kỷ của con người nữa. Loài thọ tạo đang chờ đợi sự phục hồi của con cái Đức
Chúa Trời (câu 19). Bởi điều nầy, tôi
hiểu rằng ngày ấy sẽ đến khi Đức Chúa Trời phục hồi địa cầu trở lại tình trạng ‘địa đàng’
nguyên thủy của nó, và khi các ‘con cái của Đức Chúa Trời’ sẽ thực thi quyền quản
trị của họ trên đất y như Đức Chúa Trời đã giáo huấn ngay từ ban đầu (Sáng thế ký 1.26-28).
Sự
vật vã của vũ trụ là phần phản ảnh sự vật vã ở bên trong Cơ đốc nhân. Hết thảy
chúng ta đều biết rõ sự vật vã trong Rôma 7, và chúng ta sẽ tiếp tục nhìn biết đau khổ nầy cho tới
chừng nào chúng ta kinh nghiệm cơn phấn hưng và sự nên thánh đầy trọn của chúng
ta: “không những muôn vật
thôi, lại chúng ta, là kẻ có trái đầu mùa của Đức Thánh Linh, cũng than thở
trong lòng, đang khi trông đợi sự làm con nuôi, tức là sự cứu chuộc thân thể
chúng ta vậy” (Rôma 8.23).
Cho
tới khi chúng ta được ban cho loại thân thể đã biến đổi hay thiên thượng (I Côrinhtô 15.40, 50...),
chúng ta sẽ tiếp tục bị hành hại bởi xác thịt và sự xác thịt xui giục phải phạm
tội. Đức Thánh Linh ngự bên trong là hợp đồng nghiêm chỉnh nhất của Đức Chúa Trời
về một sự phục hồi toàn bộ trong tương lai, một sự giải thoát hoàn toàn không
những khỏi quyền lực của tội lỗi, mà còn ra khỏi sự hiện diện của nó nữa. Sự hiện
diện của Đức Thánh Linh trong Cơ đốc nhân giống như một chiếc nhẫn đính hôn vậy
[Ý nghĩa của từ ngữ nầy arrhabohn, trong tiếng Hy lạp ngày nay. Có bằng chứng theo
cuộn giấy da về từ ngữ nầy đã được sử dụng giống như ‘thẻ nhận dạng’. F. F. Bruce, pp. 173-174], nó cung ứng cốt
lõi cho sự kỳ vọng của chúng ta về những việc sẽ tốt hơn trong tương lai. Thậm
chí ở giữa những sự vật vã và đau khổ của đời nầy, Đức Thánh Linh bảo đảm với
chúng ta các ơn phước sẽ xảy đến trong vai trò con cái của Đức Chúa Trời.
Thần trí của sự
giúp đỡ (8.26-27)
Có
một bài hát mà tôi đã nghe trên radio đại loại như thế nầy: “Tôi chưa là người
mà tôi đáng phải trở nên, và tôi chưa là người mà tôi đáng phải trở thành, nhưng
cảm tạ Đức Chúa Trời tôi không phải là người mà tôi hiện sống đây”. Trong
kinh nghiệm Cơ đốc của chúng ta khi chưa phải là kẻ mà chúng ta đáng phải trở
thành ấy, tuy chưa phải là kẻ mà chúng ta được định cho phải trở thành đó, Đức
Thánh Linh phục sự cho chúng ta trong vai trò Đấng nâng đỡ chúng ta, Ngài đến để
trợ giúp cho chúng ta ở những lúc mà chúng ta yếu đuối và bất khả.
“Cũng một lẽ ấy, Đức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối
chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng;
nhưng chính Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu khẩn
thay cho chúng ta. Đấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng của Thánh Linh là
thể nào, vì ấy là theo ý Đức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy” (Rôma 8.26-27).
Tôi
hiểu sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh còn rộng sâu hơn là chỉ vùa giúp chúng ta cầu
nguyện cho những điều mà chúng ta không nói thành lời. Nhưng chắc chắn đây là một
trường hợp đặc biệt trong chức vụ giúp đỡ của Đức Thánh Linh. Có những việc
không thể nói nên lời — bất cứ lời gì (bất
cứ ngôn ngữ nào, thổ âm nào, tiếng ngoại quốc nào, hay thiên sứ nào). Ở những
thời khắc nầy, khi nhân tính của chúng ta không thể chịu nổi ở điểm nguy kịch, Đức
Thánh Linh phục sự vì ích cho chúng ta, truyền đạt cho chúng ta những ao ước và
khát khao sâu sắc nhất trong chúng ta.
Đây
là nguồn của sự nên thánh của chúng ta. Luật pháp không thể làm nên thánh, phù
hợp với sự yếu đuối của xác thịt.
Một
cây nho không thể đốc ra những trái nho bởi Đạo Luật của Quốc Hội; chúng là
trái của sự sống của cây nho; cũng vậy cách xử sự phù hợp với tiêu chuẩn của Nước
Trời không được tạo ra bởi đòi hỏi nào, thậm chí không phải đòi hỏi của Đức
Chúa Trời, mà đây là trái của bổn tánh thiêng liêng mà Đức Chúa Trời ban cho như
kết quả của những gì đã được làm ra trong và bởi Đấng Christ [S. H. Hooke, The Siege Perilous (1956), p. 264, as
quoted by Bruce, p. 163].
Những
gì Luật pháp không thể làm qua những yếu đuối của xác thịt, Đức Chúa Trời đã
làm rồi qua công tác của Con Ngài trên thập tự giá và qua sự dành riêng những kết
quả của công tác ấy bởi Đức Thánh Linh.
Muốn chạy theo và làm
theo luật pháp đòi hỏi, tuy nhiên đừng trao cho tôi hai bàn chân hay hai bàn
tay; nhưng các tin tức mà Tin lành mang đến là tốt hơn; Nó giúp cho tôi bay
cao, và trao cho tôi đôi cánh [Quoted by Bruce, p. 162].
Tính chắc chắn
của sự nên thánh (8:28-39)
Có
một cách bày tỏ đại loại như sau: chỉ có hai việc trong đời nầy là chắc chắn, sự
chết và các thứ thuế. Giờ đây, sự nầy có thể là thực cho người chưa tin Chúa, nhưng
đối với tín đồ thực trong Đức Chúa Jêsus Christ, chúng ta ít nhất phải thêm vào
một việc nữa —sự
nên thánh. Đấy là sức mạnh trong những câu kết thúc nầy ở Rôma 8. Tất cả những lần vật vã, hết thảy những chao đảo, mọi
sự đau khổ, là một phần trong chương trình của Đức Chúa Trời hầu biến đổi chúng
ta ra giống theo chính mình Ngài.
“Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích
cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định.
Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình
bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em; còn những kẻ
Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã
xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm
cho vinh hiển” (Rôma 8.28-30).
Câu
28 nhấn mạnh rằng không những là muôn vật đều vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời,
mà còn là vì ích cho Cơ đốc nhân nữa. Vì thế, chính Đức Chúa Trời là Đấng đang
chủ động trong tất cả những vụ việc thuộc đời sống chúng ta, vì “chính Đức Chúa Trời là Đấng đã hiệp mọi sự lại”.
Các sự cố trong đời sống của chúng ta không phải là tình cờ đâu; chúng là công
việc thủ công của Đức Chúa Trời chí cao. Chúng ta được nhắc cho nhớ rằng chính mọi sự đang
làm ích cho chúng ta. Điều nầy bao gồm những việc đẹp lòng cũng như không đẹp
lòng, những việc mà chúng ta gọi là tốt, và những việc chúng ta nghĩ là xấu nữa.
Không một hoàn cảnh nào mà không góp phần vì ích cho chúng ta và cho sự vinh hiển
của Đức Chúa Trời. Sau cùng, chúng ta sẽ nhìn thấy mọi sự hiệp lại làm ích cho. Chúng ta
không thể nhìn vào mọi việc một mình được, chúng ta không có khả năng nhìn thấy
từ đầu cho đến cuối, vì vậy chúng ta phải tin cậy nơi Đức Chúa Trời hoàn tất ý
chỉ tốt lành, trọn vẹn và đáng chấp nhận của Ngài trong đời sống của chúng ta
theo phương thức riêng của Ngài.
Các
câu 29 và 30 nhắc cho chúng ta nhớ rằng sự cứu rỗi từ lúc đầu cho tới khi hoàn
tất là công việc của Đức Chúa Trời, và Ngài không để mất một ai dọc đường cả.
Người nào Đức Chúa Trời biết trước là những người mà Đức Chúa Trời đã chọn trước
khi sáng thế, trước khi họ làm một việc gì, dù thiện hay ác. Nền tảng của sự tự
do lựa chọn của Đức Chúa Trời là ân điển, chớ không phải theo công trạng của người
được chọn (vì quả thực chúng ta chẳng có
công trạng chi ở trước mặt Đức Chúa Trời). Đức Chúa Trời không nhìn xuống
qua mấy bức màn của thời gian rồi lựa chọn người nào Ngài biết sẽ đạt tới mức
tin cậy Ngài. Từ ngữ ‘biết’ thường chứa ý niệm lựa chọn (đối chiếu Sáng thế ký 18.19; Giêrêmi 1.5). Biết trước ở đây và ở những chỗ khác (thí dụ, Rôma 11.2; I Phierơ 1.20) có thể nói tới ‘chọn trước’, và ở đây có ý ấy [“Đối với cụm từ ‘người
Ngài biết trước’, chúng có nghĩa rộng về ân sũng lựa chọn thường được ám chỉ
bởi động từ ‘biết’ trong Cựu Ước. Khi
Đức Chúa Trời có hiểu biết về con người theo cách đặc biệt nầy, Ngài đặt sự lựa
chọn của Ngài trên họ. Đối chiếu Amốt 3.2 (‘Ta đã biết chỉ một mình
các ngươi trong mọi họ hàng trên đất’); Ôsê 13.5 (‘Ta đã biết ngươi trong đồng vắng, trong đất khô
khan’). Chúng ta cũng
có thể sánh cách nói riêng của Phaolô ở I Côrinhtô 8. 3 (‘Nhưng
nếu có một người yêu mến Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời biết người đó’); Galati 4. 9 (‘Nhưng
hiện nay anh em biết Đức Chúa Trời lại được Đức Chúa Trời biết đến nữa’).” F. F. Bruce, p. 177].
Thứ
tự trong các câu 29 và 30 là đây: biết trước
(nghĩa là lựa chọn), định sẵn, kêu gọi, xưng công bình, sự vinh hiển. Biết trước
quyết định con cái Đức Chúa Trời sẽ là ai; định sẵn quyết định dân sự của Đức Chúa Trời sẽ
ra thể nào (biến đổi ra giống theo ảnh tượng
của Đấng Christ); gọi là thời điểm đúng lúc khi sự lựa chọn kẻ
không tin Chúa được mời trở nên một chi thể trong gia đình của Đức Chúa Trời; xưng công bình
là sự tội nhân dự phần vào những lợi ích trong công tác của Đấng Christ vì ích
cho người; sự
vinh hiển là sự nhìn biết tương lai đầy trọn mọi sự mà Đức Chúa Trời
đã định sẵn cho chúng ta. Sự vinh hiển được nói ra ở thì quá khứ vì tính chắc
chắn của nó sẽ phải có. Có khi chúng ta
nói với con cái của chúng ta: “Nếu con làm như thế nầy, thì con có được cái đó”.
Chúng ta không nói: “Con sẽ có cái đó” mà nói: “Con đã có cái đó” vì đấy là một việc chắc chắn. Cũng
một thể ấy, sẽ y như thế với sự nên thánh trọn vẹn và sau cùng của chúng ta. Chẳng
có một thắc mắc nào về sự sẽ xảy có của nó hết.
Bạn
có nhìn thấy từ sự chọn lựa đến sự vinh hiển, mọi sự đều nằm trong quyền tể trị
của Đức Chúa Trời không? Sự nên thánh của chúng ta không nương vào sự trung tín của
chúng ta, vì chúng ta sẽ không làm được
điều đó. Sự nên thánh của
chúng ta nương hoàn toàn vào Đức Chúa Trời, và những gì Đức Chúa Trời quyết định
sẽ diễn ra. Phaolô vốn không nói rằng một số trong những kẻ mà Đức Chúa Trời đã
lựa chọn sẽ được gọi, cũng không nói rằng một số trong những kẻ được gọi sẽ được
vinh hiển đâu. Từ sự lựa chọn đến sự nên thánh, đây là công việc của Đức Chúa
Trời và chắc chắn là như thế.
Đáp ứng của
chúng ta trước những điều nầy (các câu
31-39). Lòng
tin cậy của Cơ đốc nhân nằm trong ánh sáng của những việc chắc chắn nầy đã được
tỏ ra trong các câu 31-39 bởi một chuỗi những thắc mắc và giải đáp.
(1) “Đã vậy thì chúng ta sẽ nói làm sao?” (câu
31). Nếu Đức Chúa Trời ở cùng phía với chúng ta, thì ai sẽ dám nghịch cùng
chúng ta? Nói như vậy chẳng phải là nói
rằng không có ai nghịch cùng chúng ta, vì Satan là kẻ thù nghịch của chúng ta. Nhưng
nếu Đức Chúa Trời hiện hữu vì chúng ta, thì Satan là ai mà dám đối nghịch cùng
chúng ta? Tôi không có anh lớn hơn mình, nhưng tôi là anh lớn hơn, và chẳng có
một sự an toàn nào lớn hơn là được ở với anh cả của mình. Nếu Đức Chúa Trời chí
cao của vũ trụ đang hiện hữu vì chúng ta, thì chẳng có kẻ nghịch nào dám làm hại
chúng ta. Nếu quyền phép của Đức Chúa Trời có đủ để giải cứu chúng ta, nếu tình
yêu thương của Đức Chúa Trời là mạnh mẽ đủ để sai Con độc sanh của Ngài bước
lên thập tự giá, thì chẳng có việc gì mà Ngài sẽ không làm cho chúng ta là con
cái của Ngài (câu 32).
(2) “Ai sẽ kiện kẻ lựa chọn của
Đức Chúa Trời?” (câu 33). Đức Chúa Trời, vị quan án chí cao của vũ trụ, đã tuyên bố
chúng ta là công bình qua công tác của Con Ngài. Vậy thì, ai dám kiện chúng ta
trước mặt Đức Chúa Trời chứ?
(3) “Ai sẽ lên án họ ư?” (câu 34). Ai sẽ dám lên án chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời là Đấng
đã ban Con độc sanh của Ngài đến cứu chúng ta. Ngài đã gánh lấy mọi tội của
chúng ta trên thập tự giá. Chẳng có một sự đoán xét nào cả. Hơn nữa, Ngài đang
ngồi ở bên tay hữu của Đức Chúa Trời cầu thay vì ích cho chúng ta.
(4) “Ai sẽ phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương của Đấng Christ?”
(câu 35). Có điều chi trong vũ trụ nầy lớn hơn
Đức Chúa Trời không? Có người nào lớn hơn Ngài không? Không! Quả thực, không
có. Nếu điều nầy là thực, thì chẳng có một việc gì có thể phân rẽ chúng ta ra
khỏi tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Sự cứu rỗi, sự nên thánh, đều an toàn
giống như Đức Chúa Trời của thiên đàng là mạnh sức. Chính với độ tin cậy như thế
nầy mà chúng ta thể hiện ra mọi trách nhiệm Cơ đốc của mình, với sự nhận biết rằng
Đức Chúa Trời là nguồn của sự cứu rỗi và sự nên thánh của chúng ta, và vì lẽ đó,
điều nầy là chắc chắn.
Phần ứng dụng
(1) Chúng ta phải tin rằng sự cứu rỗi và sự nên thánh của
thánh đồ hoàn toàn là công việc của Đức Chúa Trời. Chúng ta không thể đồng
ý với Charles G. Finney, ông viết: “Hiển nhiên là toàn bộ sự vâng phục đối với luật pháp của Đức
Chúa Trời đặt trên nền khả năng tự nhiên. Chối bỏ điều nầy là chối bỏ con người
không có khả năng làm theo cũng như người có thể làm theo. … Dĩ nhiên, điều nầy
đã được định sẵn cho đến đời đời, rằng thể trạng nên thánh hoàn toàn có thể đạt
được trong đời nầy, trên cái nền khả năng tự nhiên” [Charles G. Finney, as quoted by Miles J. Stanford, Abide
Above (Hong Kong: Living Spring Press, 1970), pp. 24-25].
Tôi
tin chắc rằng lý do cho nhiều Cơ đốc nhân ném mình vào cái tháp ngà trong đời sống
thuộc linh của họ, ấy là họ đã sai lạc trong suy tưởng cho rằng đời sống thuộc
linh của họ đang nằm trong khả năng của họ. Từ Rôma 6, chúng ta phải kết luận chúng ta chịu trách nhiệm sống
loại đời sống tin kính, nhưng chúng ta không thể chịu trách nhiệm như thế được,
khi tách ra khỏi công tác của thập tự giá và chức vụ của Đức Thánh Linh.
(2) Chúng ta phải nhìn biết rằng ngay cả chức vụ của Đức
Thánh Linh, toàn bộ sự nên thánh sẽ không đạt được trong đời nầy. Sự cứu chuộc mà Phaolô nói ở trong các câu 18-25 còn ở trong tương
lai. Dầu còn ở trong tương lai, tuyệt đối sự ấy là chắc chắn.
(3) Rôma 8 cung ứng cho chúng ta sự bảo đảm sống
trong sự tin cậy và đắc thắng. Sự tin cậy của chúng ta đặt trọn vẹn trên quyền tể trị của
Đức Chúa Trời trong sự cứu rỗi và sự nên thánh. “James Denney từng lưu ý rằng trong trường hợp
sự tin chắc là một tội lỗi trong Thiên Chúa giáo, và một bổn phận của Tin Lành,
trong Tân Ước tin chắc ấy chỉ là một sự kiện” [Packer, Knowing God, p. 205]. Trên cơ sở của sự kiện tin chắc nầy, chúng ta có
thể sống đời sống Cơ đốc một cách đáng tin cậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét