Đọc
thư của Phaolô
(Rôma 15)
Phần giới thiệu
Một
phương pháp không đúng trong việc tiếp thu điều chi đó về người khác là đọc thư
từ của họ. Bây giờ tôi biết rõ có nhiều lần khi tôi đọc các thư tín của Phaolô,
tôi nghi rằng ông đã đọc thư từ của chúng ta. Nhưng Rôma 15 và 16 là một trường hợp
trong đó Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang vùa giúp chúng ta đọc thư từ của
Phaolô, và nói riêng tôi rất thích việc đọc đó.
Có
thể bạn sẽ ngạc nhiên chút ít về điều nầy, khi có khuynh hướng suy nghĩ ngược lại.
Các học viên Kinh Thánh nhắc cho chúng ta nhớ rằng ở câu 14, chúng ta đã đi qua
phần dạy dỗ của thư tín và đã đạt tới một số kết luận riêng. Ở bề mặt của vấn đề,
chúng ta có khuynh hướng nhất trí với những nhà giải kinh rồi lùi lại nghỉ một
chút cho tới khi chúng ta đến với thư tín khác, xét nét các phần giới thiệu và
kết luận về mặt hình thức, về những lời chào thăm vô nghĩa hay có của chúng ta:
“Hi!” “Mạnh khỏe
không?” hoặc “Rất vui khi gặp bạn”.
Song
đây không phải là trường hợp với tiểu đoạn kết luận nầy của thư tín Rôma từ
ngòi viết của vị sứ đồ lỗi lạc là Phaolô. Không dám đâu! Bạn thấy đấy, chúng ta
học biết rất nhiều về Phaolô từ việc đọc phần thân của các thư tín của ông giống
như chúng ta tiếp thu về nhà truyền đạo khi lắng nghe các bài giảng của ông vậy.
Những điều hết thảy chúng ta muốn biết rõ, thực sự thì ông giống với điều gì? Bạn
học biết nhiều về nhà truyền đạo bằng cách mời ông ấy đến nhà dùng bữa tối, hay
bằng cách viếng thăm ông ấy tại tư gia. Bạn và tôi có thể học biết điều chi tạo
ra cái vỏ bọc sứ đồ Phaolô bằng cách xem kỹ các tiểu đoạn ‘riêng tư’ nầy trong các thư tín của
ông. Ở đây, như tôi đã nói rồi, thực sự chúng ta đang đọc thư từ của Phaolô. Ở đây,
chúng ta sẽ học biết nhiều về giáo lý Cơ đốc được áp dụng vào những thực tại
trong cuộc sống như thế nào! Đây là chỗ có cần nhất.
Ở
các chương 1-3a, Phaolô đã tỏ ra nhu cần về một kiểu cách công bình của Đức
Chúa Trời. Sở dĩ như vậy là vì tất cả mọi người đều là tội nhân, họ không tìm
kiếm Đức Chúa Trời, và họ đã chối bỏ và sửa đổi lại bất cứ hiểu biết nào mà họ đã
có về Ngài. Sự công bình đã được Đức Chúa Trời chấp nhận (và là điều con người không thể kiếm được hay xứng đáng với) đã được
Đức Chúa Trời cung ứng cho qua đời sống, sự chết có tính cách hy sinh, và sự sống
lại của Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ. Sự công bình là thích đáng với đức
tin chớ không thích đáng với việc làm (Rôma
3b-5). Địa vị mới của Cơ đốc nhân ‘trong Đấng Christ’ đòi hỏi một đời sống mới, một
đời sống không thể đem sống với sức lực của xác thịt (mọi khả năng tự nhiên của con người), nhưng chỉ nhờ vào sự tiếp trợ
của Đức Thánh Linh (Rôma 6-8).
Cái
điều được đóng trong ngoặc đơn, nhưng rất quan trọng trong sự bàn bạc của trong
thư tín nầy, là phần giải thích sự thất bại của người Do thái không đạt được sự
cứu rỗi trong khi sốt sắng về tôn giáo, còn người Ngoại bang thì tìm được ơn ấy,
dường như thậm chí chẳng tìm kiếm ơn ấy nữa. Câu trả lời của Phaolô, ấy là đang
khi Israel trông mong được cứu bởi phẩm giá mọi nguồn gốc chủng tộc và việc làm
của họ, Đức Chúa Trời ưng ban sự cứu rỗi trên cơ sở thương xót, chớ không phải
sự công bình, và trên cơ sở đức tin, chớ không trên cơ sở các việc làm. Không
những Israel
đã thất bại vì Đức Chúa Trời không chọn từng người Do thái, mà vì họ không chọn
Ngài. Tất cả mọi sự nầy đã được hoạch định để ban ơn cứu rỗi cho dân Ngoại, và
bởi sự trở lại đạo của họ để kích thích Israel một lần nữa trở lại với Đức
Chúa Trời của họ (Rôma 9-11).
Ở
Rôma 12.1 đến 15.13 Phaolô xử
lý với những bổn phận Cơ đốc đối với Đức Chúa Trời và con người theo quan điểm ơn
thương xót thiêng liêng mà ông đã nhận được. Bổn phận của chúng ta đối với Đức
Chúa Trời là một đời sống tận hiến cho sự thờ phượng. Sự phục vụ đã được tỏ ra
trong Hội thánh qua sự thực thi ân tứ thuộc linh của chúng ta và trong các mối
quan hệ của con người chúng ta bằng cách thể hiện tình yêu thương (Rôma 12). Chúng ta buộc phải tuân theo các luật lệ về đất
đai và phải sống theo luật pháp của Đức Chúa Trời (chương 13). Luật yêu thương phải được thể hiện ra đối với anh em yếu
đuối hơn bằng cách để cho họ nắm giữ các nhận thức riêng của họ về các vấn đề
thuộc sự tự do Cơ đốc, và bởi việc hạn chế sự thực thi bất cứ sự tự do Cơ đốc
nào tạo ra sự vấp ngã của một thành đồ kém trưởng thành hơn (chương 14).
Ở
13 câu đầu của chương 15, Phaolô chỉ ngón tay của ông vào vấn đề chính, về
trách nhiệm của kẻ mạnh đối với kẻ yếu trong đức tin. Kế đó, ông đưa ra ba lời động
viên dành cho Cơ đốc nhân mạnh mẽ phải từ bỏ các quyền hạn của mình vì ích cho
kẻ yếu. Từ câu 14 trở đi, chúng ta được ơn đọc thư riêng của Phaolô để có cái
nhìn thấu suốt vào những gì tạo nên một người lỗi lạc của Đức Chúa Trời khác biệt
với Cơ đốc nhân ‘đang
chạy như chiếc cối xay’.
Lời lẽ sau cùng
về kẻ mạnh và kẻ yếu (15.1-13)
Vấn đề chính (các câu 1-2). Mặc dù thư I Côrinhtô đã được viết ra cho những người
rõ ràng là yếu ớt trong đức tin Cơ đốc của họ, đấy chẳng phải là trường hợp
trong thư Rôma, vì ở đây Phaolô nói tới bản thân ông và các độc giả của ông là
những kẻ ‘mạnh’:
“Vậy chúng ta là kẻ mạnh,
phải gánh vác sự yếu đuối cho những kẻ kém sức, chớ làm cho đẹp lòng mình” (Rôma 15.1) [Cũng đối chiếu Rôma 15.14, ở đây Phaolô chào thăm các độc giả của
mình trong quá trình của họ trong đức tin].
Vấn
đề chính trong hai câu đầu tiên nầy, ấy là chúng ta phải tự đặt mình vào chỗ
làm đẹp lòng anh em yếu đuối hơn là bản thân mình. Ở trọng tâm của sự va chạm đang
tồn tại giữa kẻ mạnh và kẻ yếu là tình trạng ích kỷ. Phaolô không buộc kẻ yếu
phải ‘xoay theo’, mà buộc kẻ mạnh
phải ‘gánh vác’ với những kẻ kém
trưởng thành hơn. Hơn cả điều nầy, kẻ mạnh phải bằng lòng gạt qua một bên những
sự tự do cá nhân, những điều không giúp kẻ mạnh được mạnh hơn, mà là điều làm
ngăn trở cho kẻ yếu.
Ở
trọng tâm của vấn đề là nan đề tự kỷ luật và tự chối bỏ. Điều nầy rất hiển
nhiên trong thư tín I Côrinhtô (đặc biệt đối
chiếu 9.24-27; 10.1-13). Lý do duy nhứt tại sao một Cơ đốc nhân mạnh mẽ lại
từ chối không nhường bước trước những sự ngại ngùng mà kẻ yếu nhận thức được là
vì người ấy cứ mãi lo làm cho thỏa lòng mình.
Giờ
đây việc nhượng bộ các sự tự do Cơ đốc đối với anh em yếu đuối hơn không nhất
thiết là không có điều kiện. Trước hết, đó là việc nhượng bộ các sự tự do Cơ đốc,
chớ không phải quyền tự do Cơ đốc. Nghĩa là, chúng ta cần phải nhượng bộ cách sử
dụng các quyền hạn của chúng ta, những thứ khiến cho một anh em yếu đuối hơn phải
vấp ngã, chớ không phải nhượng bộ quyền tự do mà chúng ta đang có từ Luật pháp,
hình thái thiên về với luật pháp khăng khăng phải thêm việc làm vào đức tin thì
mới được cứu. Thứ hai, chúng ta cần phải nổ lực làm đẹp lòng kẻ lân cận mình
trong đó có cả ích cho họ, và để gây dựng cho họ nữa: “Mỗi người trong chúng ta nên làm đẹp lòng kẻ lân cận mình, đặng làm
điều ích và nên gương tốt” (Rôma 15.2).
Giống
như một người cha khôn ngoan từ chối không nhượng bộ từng ý định chợt nảy ra của
con cái mình, cũng một thể ấy Cơ đốc nhân khôn ngoan từ chối không nhượng bộ từng
ý định chợt nảy ra của người chưa trưởng thành. Chỉ khi ấy việc nhượng bộ các sự
tự do của chúng ta làm gây dựng cho anh em yếu đuối hơn và khi ấy là vì ích cho
người ấy nữa, chúng ta nhượng bộ đối với sự yếu đuối của người ấy. Ở đây, nhưng
trong từng lãnh vực kinh nghiệm Cơ đốc, chẳng có một công thức nào cho chúng ta
phải noi theo, những công thức nói cho chúng ta biết khi nào phải nhượng bộ và
khi nào phải trụ lại. Đây là một quyết định của đức tin, chúng ta phải cầu hỏi
sự khôn ngoan thiêng liêng để có quyết định đó.
Ba động lực
dành cho sự nhượng bộ Cơ đốc
Ở
các câu 3-12, có ba động lực đặc biệt cho việc nhượng bộ các sự tự do của chúng
ta đối với anh em yếu đuối hơn. Trong câu 3, là động lực chúng ta thấy có trong
tấm gương của Chúa chúng ta. Trong các câu
4-6, có động lực chúng ta nhận được trong sự khuyên dạy của Kinh Cựu Ước. Ở các
câu 7-12, có động lực chúng ta tìm thấy từ sự hiện hữu của chương trình thiêng
liêng hòng cứu dân Ngoại y như cứu người Do thái.
(1) Tấm gương
của Đấng Christ (câu 3). Yếu tố đầu tiên
trong chương trình động viên của Phaolô là một sự nhắc nhở đến tấm gương đã đề
ra bởi Đức Chúa Jêsus Christ của chúng ta [Cũng đối chiếu
phần nhắc nhở tương ứng ở Philíp 2.1-8, đặc biệt các câu
5-8]. Chúa chúng ta không chọn làm đẹp lòng Ngài, nghĩa là, làm thoả mãn
mọi tiên vị của xác thịt, thay vì thế gánh chịu sự nguyền rủa và bắt bớ của con
người để chúc phước cho chúng ta với ơn cứu rỗi. Phần lớn dường như nhấn mạnh đến
hoàn cảnh của chúng ta tương tự với hoàn cảnh của Đấng Christ. Vì thế, chúng ta
cần phải chọn làm đẹp lòng người khác bằng cách tự chối bỏ mình, giống như Đức
Chúa Jêsus Christ đã tìm cách làm đẹp lòng chúng ta bởi sự Ngài chối bỏ mình.
Mặc
dù phải chú trọng vào điều nầy, tôi muốn nhất trí với [“Tính
thường xuyên mà Thi thiên nầy ám chỉ đến trong Tân Ước cùng các chi tiết của nó
được xem là đã ứng nghiệm trong Đấng Christ đánh dấu đây là Đấng Mêsi. Phần
được trưng dẫn cần phải hiểu theo ánh sáng của những gì đi trước trong Thi
thiên: “sự sốt sắng về nhà Chúa tiêu nuốt
tôi”. Ấy chẳng phải những sự nguyền rủa của chúng ta đang có ở đó, mà những
lời nguyền rủa của những kẻ bất kỉnh nghịch lại Đức Chúa Trời. Những lời nguyền
rủa nầy đã được trút ra nghịch lại Đức Chúa Trời bởi kẻ bất kỉnh úp đổ trên Đấng
Christ. Cần phải nói rằng mọi sự thù nghịch của con người chống lại Đức Chúa Trời
đã được nhắm vào Đấng Christ; Ngài là nạn nhân của cuộc công kích nầy. Đối với điều
nầy, Phaolô minh họa xác định rằng Đấng Christ “không làm đẹp lòng Ngài”. Chúng ta có thể thắc mắc: hình ảnh hạ
mình của Chúa chúng ta mang lấy bổn phận làm đẹp lòng kẻ lân cận của chúng ta
trong hoàn cảnh mà Phaolô có trong nhận thức? Có sự khác nhau rõ ràng khi chỉ
ra tấm gương của Chúa Jêsus. Có một sự khác nhau rất quan trọng giữa những gì Đấng
Christ đã làm và những điều kẻ mạnh được thôi thúc phải lo làm. Ngài “không làm đẹp lòng mình” với cấp độ
không thể so sánh trong việc mang lấy sự thù nghịch của con người chống lại Đức
Chúa Trời và Ngài đã gánh lấy lời nguyền rủa nầy vì Ngài sốt sắng với sự vinh
hiển của Đức Chúa Trời. Ngài không lẫn tránh một lằn đòn nào. Liệu chúng ta là
kẻ mạnh, cứ mãi mê lo làm đẹp lòng mình trong vấn đề ăn và uống có phương hại đến
các thánh đồ của Đức Chúa Trời và sự gây dựng cho thân thể của Đấng Christ? Đây
là sự đối ngược hoàn toàn giữa hoàn cảnh của Đấng Christ và hoàn cảnh của chúng
ta đang nâng cao sức mạnh của lời kêu gọi”. John Murray, The Epistle to the Rome
(Grand Rapids. Wm. B. Eerdmans, 1968), II, pp. 198-199], rằng phần nhấn
mạnh ở đây có lẽ rơi vào nét tương phản cố hữu giữa sự tự chối bỏ mình của Chúa
chúng ta và của chúng ta. Chúa Jêsus chúng ta bằng lòng gánh chịu những nguyền
rủa và bất kỉnh đối với Đức Chúa Trời, những lời rủa hoàn toàn bất công và bất
xứng. Chúng ta bắt đầu so sánh sự hy sinh những ước muốn của xác thịt với sự hy
sinh của Chúa chúng ta như thế nào đây?
(2) Lời khuyên
của Kinh Cựu Ước (các câu 4-6). Sau khi đã đưa ra lời
tiên tri về Đấng Mêsi trong Thi thiên 69.9, Phaolô cơi rộng phần bàn luận của ông bằng
cách khẳng định rằng đúng là ở đây giá trị của kinh Cựu Ước đã được công nhận.
Những
gì chúng ta tìm thấy trong Kinh Cựu Ước không phải là không có tầm quan trọng
trong đời sống của chính chúng ta. Không những đây là bản tường trình lại những
cách đối xử của Đức Chúa Trời với con người đã lâu lắm rồi, đây cũng không phải
là sự nhắc nhớ về ‘đời xửa đời xưa’; mà đây là một nguồn của sự khích lệ và hy vọng:
“Vả, mọi sự đã chép từ xưa
đều để dạy dỗ chúng ta, hầu cho bởi sự nhịn nhục và sự yên ủi của Kinh Thánh dạy
mà chúng ta được sự trông cậy” (Rôma 15.4).
Kinh
Thánh tạo ra sự trông cậy như thế nào? Thậm chí còn phức tạp hơn, sự trông cậy
có mối quan hệ nào với vấn đề hiện tại về việc nhượng bộ các sự tự do của Cơ đốc
nhân? Thứ nhứt, chúng ta phải bắt đầu bằng cách xác định từ ngữ ‘trông cậy’.
Tự điển Webster cho sự trông cậy là: “ … ước muốn được đính kèm với sự tán thưởng hay trông
mong” [Webster’s
New World Dictionary College Edition (Cleveland. The World Publishing
Company, 1957), p. 699]. Theo Kinh
Thánh, chúng ta còn muốn chính xác hơn định nghĩa nầy. Sự trông cậy Cơ đốc là sự
bảo đảm việc nhìn biết một mục tiêu, tuy còn ở tương lai, nhưng mục tiêu ấy là
chắc chắn vì nó đã được Đức Chúa Trời hứa cho và sẽ được Ngài hoàn tất [“(c) Trông cậy trong Tân Ước là một sự tin tưởng kiên nhẫn,
có kỷ luật trong sự trông đợi Chúa là Cứu Chúa của chúng ta. Trông cậy là biết
nhắm vào mục tiêu ở trước mặt, chờ đợi từng phút đối với mục tiêu. Nó bày tỏ bản
chất sống động của nó trông đợi với tính kiên định, … bằng việc cưu mang kiên
nhẫn sự căng thẳng giữa hoàn cảnh, khi chúng ta bước đi (từng giây phút) …, bởi … đức tin (II Côrinhtô 5.7),
và kiểu cách cuộc sống trong tương lai của chúng ta (đối chiếu Rôma 8.25; I Têsalônica 1.3). Sự chờ đợi nầy là một việc rất
năng động, vì nó có quan hệ với sự đắc thắng. Mặc dù sự trông đợi có thể là đau
đớn lắm, điều nầy cũng được kể là tích cực như “đau đẻ” chỉ ra “sự sanh lại”
(Mathiơ 24.8). Vì lẽ đó người nào có lòng trông
cậy được yên ủi và tin quyết (II Côrinhtô 5.8; II Têsalônica 2.16; I Têsalônica 4.18). Trông cậy là sự chờ đợi có
kỷ luật. Vì thế, trong I Phierơ 1.13 lời cảnh
cáo: “lấy sự trông cậy trọn vẹn
đợi chờ ơn …”, có câu nầy đi
trước: “bền chí như thể thắt lưng”,
nghĩa là, phải sẵn sàng cho cuộc tấn công dữ dội. Nội dung nầy thuộc về sự từ bỏ
cơ bản mọi tính toán về tương lai, hạ mình nhìn nhận các giới hạn đề ra cho tri
thức của chúng ta, đem mọi ước muốn của chúng ta đầu phục các đòi hỏi của chiến
trận cho cuộc sống mà chúng ta đã được chỉ định vào đó. Mục tiêu sự trông cậy ấy
kêu gọi chúng phải “tỉnh thức và cầu nguyện”.
Người nào đua tranh để được mão triều thiên hay hư nát, tự mình chịu lấy mọi sự
kiêng kỵ (I Côrinhtô 9.25). Trông cậy trở thành động lực để
làm cho cá nhân được thanh sạch (I Giăng 3.3),
khích lệ chúng ta phải phấn đấu để được nên thánh (Hêbơrơ 12.14) không
có sự trông cậy ấy chẳng ai được thấy Đức Chúa Trời. Đầy dẫy với ao ước sự trở
về quê hương với Chúa của mình, vị sứ đồ tìm kiếm sự vinh hiển của Ngài trong
việc làm đẹp lòng Ngài (II Côrinhtô 5.8...). Trông cậy đòi hỏi
chúng ta phải cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay (Hêbơrơ 10.23) và phải sẵn sàng đưa ra câu trả lời
cho bất cứ ai thắc mắc về điều trông cậy đó
(I Phierơ 3.15). Sau cùng, trông cậy trong Tân Ước
là một sự chờ đợi với sự vui mừng (Rôma 12.12) … Nó cung ứng lòng dạn dĩ và sức lực.
Nó bảo hộ người bề trong như mão trụ bảo hộ cho cái đầu (I Têsalônica 5.8).
Giống như chiếc tàu được an toàn khi ở bên cái neo, đời sống của chúng ta được
bảo đảm bằng sự trông cậy buộc chúng ta chặt vào Đấng Christ, là Thầy Tế Lễ Chí
Cao của chúng ta là Đấng đã bước vào nơi thánh (Hêbơrơ 6.18...).”
E. Hoffman, “Hope,” The New International Dictionary of New Testament
Theology, Colin Brown, General Editor (Grand Rapids. Zondervan, 1975), II,
pp. 243-244].
Sự
bảo đảm nầy về ơn phước tương lai tuyệt đối là quan trọng cho đối tượng. Phaolô
đang khích lệ anh em mạnh quên đi việc tận hưởng các sự tự do trong thì hiện tại
vì nó có thể làm dịp cho anh em yếu đuối hơn phải vấp ngã. Trông cậy là điều
làm cho Cơ đốc nhân ra phân biệt với những ai thuộc ‘thế hệ bây giờ’ họ nghĩ họ ‘chỉ đi vòng quanh’
và vì thế phải
‘nắm lấy mọi tận hưởng mà họ có thể tiếp lấy’. Cơ đốc nhân không phải
‘nắm lấy mọi tận
hưởng’ như quảng cáo trên truyền hình đề xuất vì chúng ta không đi
lòng vòng đâu. Lòng tin cậy ơn phước lớn lao hơn trong tương lai giúp chúng ta
quên đi những khoái lạc vô nghĩa mà các sự tự do Cơ đốc hiến cho. Giống như vận
động viên có sự chú tâm vào việc đoạt được vòng hoa chiến thắng và vì vậy tự chối
bỏ mọi xa hoa trong hiện tại, cũng vậy Cơ đốc nhân với đôi mắt nhìn vào sự
trông cậy đặt ở trước mặt mình nói “không” với những gì ngăn trở sự tấn tới thuộc
linh của anh em mình (đối chiếu I Côrinhtô 9.24-27).
Vậy
nên, trông cậy rất quan trọng trong việc quên đi các khoái lạc nơi những sự tự
do Cơ đốc trong thì hiện tại. Nhưng Cựu Ước giúp sản sinh ra sự trông cậy như
thế nào? Hết chương nầy đến chương khác trong Cựu Ước nhắc cho chúng ta về hạng
người cao trọng có đức tin, vì sự trông cậy đặt trước mặt họ, họ đã chối bỏ các
khoái lạc đời nầy để kinh nghiệm sự trông cậy mà Đức Chúa Trời đã hứa cho.
“Bởi
đức tin, Môi-se lúc đã khôn lớn, bỏ danh hiệu mình là con trai của công chúa
Pha-ra-ôn, đành cùng dân Đức Chúa Trời chịu hà hiếp hơn là tạm hưởng sự vui sướng
của tội lỗi: người coi sự sỉ nhục về Đấng Christ là quí hơn của châu báu xứ
Ê-díp-tô, vì người ngửa trông sự ban thưởng. Bởi đức tin, người lìa xứ Ê-díp-tô
không sợ vua giận; vì người đứng vững như thấy Đấng không thấy được” (Hêbơrơ 11.24-27).
Thật
là ngạc nhiên khi từ ngữ “trông cậy” thường được sử dụng trong chương nầy. “Vậy xin Đức Chúa Trời của
sự trông cậy, làm cho anh em đầy dẫy mọi điều vui vẻ và mọi điều bình an trong đức
tin, hầu cho anh em nhờ quyền phép Đức Thánh Linh được dư dật sự trông cậy!” (Rôma 15.13). Trông cậy khiến
chúng ta chú ý nhiều đến các ơn phước trong tương lai sâu sắc hơn các khoái lạc
mau qua của kỷ nguyên nầy, và Kinh Cựu Ước thu hút sự chú ý của chúng ta vào sự
trông cậy Cơ đốc.
Với
sự bảo đảm nầy vị sứ đồ lên cao từ sự khuyên nhũ của câu 4 đến lời nài xin
trong lời cầu nguyện ở các câu 5-6. Ông cầu xin rằng Đức Chúa Trời, Ngài là nguồn
của sự nhịn nhục và yên ủi sẽ làm vinh hiển chính mình Ngài bởi sự ngợi khen thốt
ra bởi một miệng, sự ngợi khen hiệp lại từ kẻ mạnh và kẻ yếu.
(3) Sự hiện hữu
của người thuộc về Đức Chúa Trời từ giữa vòng người Do thái và dân Ngoại (các câu 7-12). Ở câu 7, chúng ta được đưa trở lại với lẽ đạo chính
đã được giới thiệu trong chương 14, sự tiếp lấy nhau bởi kẻ mạnh và kẻ yếu: “Vậy thì, anh em hãy tiếp
lấy nhau, cũng như Đấng Christ đã tiếp anh em, để Đức Chúa Trời được vinh hiển” (Rôma 15.7). Sự tiếp nhận của
các cá nhân trong thân của Đấng Christ sẽ chẳng khác gì hơn sự Đức Chúa Trời tiếp
nhận những ai là dân sự của Ngài. Chính ‘trực giác’ của riêng tôi (và còn hơn thế nữa!) cho rằng nguồn va chạm thực trong Hội thánh
tại Rôma có việc phải làm với những khác biệt phát sinh giữa Cơ đốc nhân người
Do thái và các tín hữu dân Ngoại. Nếu có lẽ thật nào trong vấn đề nầy, có lẽ là
người dân Ngoại có khuynh hướng trở thành hạng Cơ đốc nhân mạnh mẽ (không có một sự cân nhắc nào của người Do
thái về ngày giờ, hay thức ăn nhất định nào đó) trong khi kẻ yếu, sẽ là người
Do thái. Sự kiêu ngạo thuộc linh khi ấy sẽ bị pha trộn với sự tự hào về chủng tộc
rồi tạo ra một sự bất hòa trong sự hiệp một Cơ đốc.
Khi
Phaolô nhấn mạnh ơn cứu rỗi của dân Ngoại, ở các câu 8-12, ông làm thế với một
ý đồ đặc biệt trong lý trí. Bằng cách nhắc cho những tín hữu dân Ngoại ‘mạnh mẽ’
nhớ rằng Đức Chúa Trời đã chọn cứu dân Ngoại, ông giục giã một nhận thức về sự
biết ơn cảm nhận tận đáy lòng. Nhưng khi Phaolô nhắc cho các dân Ngoại nầy nhớ
rằng mục đích chính của Đức Chúa Trời trong lịch sử là để cứu lấy dân Israel, ông
kêu gọi một thái độ hạ mình. Nếu các dân Ngoại muốn lấy làm tự hào là họ mạnh mẽ
hơn người anh em Do thái yếu đuối thì họ phải nhớ rằng sở thích chính của Đức
Chúa Trời nằm ở chỗ giữ các lời hứa của Ngài cho người Do thái. Đức Chúa Trời
có ý định rằng người Do thái và các dân Ngoại đồng vui mừng trong sự hiệp một, và
họ phải như vậy: “Lại
có chép rằng: Hỡi dân ngoại, hãy đồng vui cùng dân Chúa” (Rôma 15.10).
Phaolô
kết luận tiểu đoạn nầy với một lời cầu nguyện khác, lời cầu nguyện xin cho có sự
trông cậy, vui mừng, bình an, từ Đức Chúa Trời qua Đức Thánh Linh: “Vậy xin Đức Chúa Trời của
sự trông cậy, làm cho anh em đầy dẫy mọi điều vui vẻ và mọi điều bình an trong đức
tin, hầu cho anh em nhờ quyền phép Đức Thánh Linh được dư dật sự trông cậy!” (Rôma 15.13).
Một cái nhìn
vào đời sống của Phaolô (15.14-33)
Công
việc dạy dỗ của Phaolô đã được hoàn tất với câu 13, nhưng ở phân nửa sau của chương
15, chúng ta đến với mặt thân mật hơn của vị sứ đồ vì ở đây chúng ta có được
cái nhìn riêng tư vào nhà truyền giáo Phaolô. Ở các câu 14-21, chúng ta học biết
triết lý của Phaolô về chức vụ. Trong các câu 22-29, chúng ta đọc thấy chương
trình của Phaolô cho công cuộc truyền giáo. Ở các câu 30-33, chúng ta kết thúc
với lời của Phaolô xin cầu nguyện cho chức vụ của ông.
Triết lý của
Phaolô về chức vụ (các câu 14-21)
(1) Đánh giá của
Phaolô về sự trưởng thành của người Rôma (các
câu 14-15). Các thánh đồ người thành Rôma đã sống khác biệt nhiều với những
tín hữu ở thành Côrinhtô, vì Phaolô chẳng có một lời quở trách nào dành cho họ,
trừ ra một lời khen ngợi chân thành: “Hỡi anh em, về phần anh em, tôi cũng tin chắc rằng anh em có đầy
lòng nhân từ, đủ điều thông biết trọn vẹn, lại có tài khuyên bảo nhau” (Rôma 15.14). Những Cơ đốc
nhân nầy đã trưởng thành và được trang bị tốt cho chức vụ. Họ có đủ tư cách để
mưu luận và khuyên bảo nhau.
Phaolô
không viết cho họ vì có nhiều mặc khải mà họ không biết, mà vì họ, giống như
chính mình chúng ta, có khuynh hướng quên các lẽ thật kia rất quan trọng cho việc
thực thi đời sống Cơ đốc. Có một bài học thực sự ở đây cho nhiều người chúng
ta, là những ai ao ước được dạy dỗ một số lẽ thật mới, khi Đức Chúa Trời quan
tâm đến phần ứng dụng những gì chúng ta đã học biết trước đây.
(2) Phần đánh
giá của Phaolô về chính chức vụ của ông (các
câu 16-21). Một trong những việc mà Phaolô thấy cần thiết phải nhắc cho người
Rôma nhớ về chính chức vụ và địa vị sứ đồ của ông. Sự kêu gọi của ông phải trở
thành một chức việc của Đức Chúa Jêsus Christ cho dân Ngoại. Giống như Phaolô đã
khuyên mỗi một người chúng ta phải dâng chính mình cho Đức Chúa Trời làm một
hành động hy sinh trong sự thờ phượng, cũng thế, Phaolô xem chức vụ của ông là
chức vụ của thầy tế lễ, trước tiên là dâng mình cho Đức Chúa Trời trong sự phục
vụ, và kế đó dâng mình cho các dân Ngoại (câu
16).
Phaolô
là một người vốn biết rõ phải nắm chắc sự thành công như thế nào!?! Có nhiều điều
trong chức vụ của ông cần phải khoe khoang. Nhiều lãnh đạo Cơ đốc ngày nay tìm được
nhiều điều để khoe mình, còn việc khoe mình của Phaolô thuộc về một loại khác. Phaolô
biết rõ rằng sự thành công là kết quả của ân điển thiêng liêng. Chức vụ của ông
được đánh dấu bằng ân điển thiêng liêng. Ông đã được chỉ định làm một sứ đồ bởi
nhiều phép lạ và dấu kỳ (câu 19), nhưng
đây là công việc của Đức Thánh Linh.
Chức
vụ của Phaolô được đánh dấu không phải bởi chỉ quyền phép, mà còn được đánh dấu
bằng sự khải tỏ quan trọng nữa. Ai trong chúng ta dám xưng mình đã rao giảng
Tin lành đầy đủ, thậm chí như Illyricum (xứ
sở Yugoslavia hiện đại ngày nay). Khải tỏ của Phaolô là phải trở thành một
nhà tiền phong, không xây dựng trên nền của người khác, mà là đi đầu với Tin
lành của Đức Chúa Jêsus Christ: “Nhưng tôi lấy làm vinh mà rao Tin Lành ở nơi nào danh Đấng Christ
chưa được truyền ra, để cho khỏi lập lên trên nền người khác” (Rôma 15.20).
Khi
nói như vậy, Phaolô thấy chính mình dang làm tròn những điều mà tiên tri Êsai đã
nói: “như có chép rằng: những
kẻ chưa được tin báo về Ngài thì sẽ thấy Ngài, những kẻ chưa nghe nói về Ngài
thì sẽ biết Ngài” (Rôma 15.21; Êsai 52.15).
Các chương
trình của Phaolô về tương lai (các câu
22-29)
Sự
cao trọng của sứ đồ Phaolô có thể được thấy rõ qua lòng sốt sắng nóng cháy của
ông. Ông không bằng lòng ‘yên nghỉ với những vòng nguyệt quế của mình’, nhưng
giờ đây ao ước muốn sang Tây ban Nha ở phía Tây cùng với Tin lành. Phaolô có thể
không thành thực với triết lý về chức vụ của mình và đến viếng thành Rome khi
các phần còn lại của thế giới chưa được nghe giảng Tin lành. Nhưng bây giờ chẳng
có một khu vực nào mà Tin lành chưa chạm đến (câu 23), ông có thể nhìn qua Tây ban Nha, và trên đường đi của
mình, ông có thể viếng thăm các thánh đồ ở Rôma.
Có
một phần việc còn lại sẽ giữ Phaolô không rời thành Rome. Ở đầu chức vụ, Phaolô
đã được khuyên bảo bởi Phierơ, Giacơ và Giăng phải nhớ đến người nghèo (Galati 2.10). Các thánh đồ ở Ma-xê-đoan và Achai, ý thức
bổn phận của họ đối với chức vụ cốt yếu với những người nào đã đem Tin lành đến
với họ, họ thích thực hiện một sự đóng góp rời rộng cho những người sống trong
thành Jerusalem và gửi phần đó cho Phaolô (câu
26). Không bao lâu phần việc nầy đã hoàn tất Phaolô sẽ rời Rome rồi hướng
sang Tây ban Nha [“Phaolô ở đây đang xin một hay nhiều
anh em ở thành Rôma cùng đi với ông sang Tây ban Nha. (Xem Công vụ các Sứ đồ 15.3;
20.38; 21.5; I Côrinhtô 16.6, 11; II Côrinhtô 1.16; Tít 3.13; III Giăng 6.) Thuật ngữ nguyên gốc được sử dụng
duy nhứt tham khảo đến việc cùng đi nầy” James M. Stifler, The Epistle to
the Rome (Chicago. Moody Press, 1960), pp. 239-240].
Phaolô xin cầu
thay cho (các câu 30-33)
Tự
nhiên chúng ta có khuynh hướng suy nghĩ rằng sự cao trọng trong chức vụ của
Phaolô có thể được luận ra từ những gì chúng ta đã đọc rồi. Nghĩa là, sự cao trọng
của Phaolô là kết quả của sự tỏ ra của Đức Thánh Linh qua vị sứ đồ và cũng của
chiều rộng và cường độ mặc khải truyền giáo của Phaolô. Nhưng có thêm một yếu tố
cung ứng, với một tầm cở lớn lao hơn, chìa khóa cho sự thành công của Phaolô trong
vai trò phát ngôn viên của hội truyền giáo. Chìa khoá đó được thấy ở các câu
30-33.
Phaolô
vốn tin chắc rằng chức vụ của ông sẽ là một chức vụ thất bại hoàn toàn nếu
không có sự cầu thay đắc thắng, và không những các lời cầu xin của chính ông, mà
còn những lời cầu xin của các thánh đồ trong nhiều Hội thánh khác nhau vì ích
cho ông nữa: “Vậy,
hỡi anh em, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, và nhờ sự yêu thương sanh bởi Đức
Thánh Linh, tôi khuyên anh em phải cùng tôi chiến đấu trong những lời cầu nguyện
mà anh em vì tôi trình cùng Đức Chúa Trời” (Rôma 15.30).
Những
lời cầu nguyện nầy rất đặc biệt và nhắm thẳng vào tình huống đặc biệt của
Phaolô. Ông vốn nhận thức rõ về các mối nguy hiểm có trước mặt tại thành Jerusalem,
và đặc biệt về sức mạnh của các đối thủ người Do thái. Phaolô không những xin được
giải cứu khỏi sự chống đối ấy, mà còn xin được có hiệu quả trong khi phục vụ
các thánh đồ (câu 31). Nếu Đức Chúa
Trời buông tha Phaolô khỏi kẻ thù và ban cho ông một chức vụ hiệu quả giữa vòng
các thánh đồ, ông sẽ đến tại Rôma trong sự vui mừng, sốt sắng ở lại với họ cách
vui vẻ (câu 32).
Phần kết luận
và những ứng dụng
Một
câu nói sau cùng nhắm vào kẻ mạnh và kẻ yếu. Thái độ của Cơ đốc nhân mạnh mẽ phải
là thái độ của Đức Chúa Jêsus Christ Chúa chúng ta, một sự bằng lòng gạt qua một
bên khoái lạc cá nhân vì sự sống thuộc linh của kẻ yếu. Nhưng bổn phận của
chúng ta trong tình yêu Cơ đốc là phải tránh những điều gây vấp phạm cho ai đó
và để thực hành những gì sẽ gây dựng và trợ giúp cho anh em yếu đuối hơn trong đức
tin. Chúng ta không nên đối xử với Cơ đốc nhân yếu đuối hơn như một cậu bé hỗn
xược mà như một anh em yếu đuối hơn.
Thiết lập chức
vụ tin kính
Tôi
muốn chúng ta tập trung vào những phẩm chất của chức vụ Phaolô, nói theo con người,
là những điều khiến ông trở thành người của Đức Chúa Trời, và chức vụ của ông,
mọi nổ lực tạo ra lịch sử mà Tân Ước đang cho chúng ta biết.
(1) Phaolô có
một chức vụ đặt nền trên các nguyên tắc của Kinh Thánh. Đây là một chức vụ được
tác động theo mẫu mực của Kinh Thánh. Phaolô đã tự xem mình, như hết thảy chúng
ta sẽ tự xem mình, là một chức vụ tế lễ dâng đời sống ông vào sự phục vụ Đức
Chúa Trời và dâng hiến giống như những người khác, đời sống họ ông đã chạm đến
bằng Tin lành, như một của lễ ngợi khen Đức Chúa Trời (câu 16).
Thêm
nữa, chức vụ của ông là một chức vụ đặt nền trên phương pháp luận theo Kinh
Thánh. Thật nhiều lần ngày nay, tôi đã gặp gỡ nhiều người trong chức vụ, họ đã đặt
chức vụ của họ trên hình thức thực dụng hơn là trên các nguyên tắc của Kinh
Thánh. Phaolô đã có một nhận thức về chức vụ theo Kinh Thánh. Ông biết rõ rằng
chức vụ của ông, cũng như mọi sự, đều thuộc về Đức Chúa Trời, qua Đức Chúa Trời,
và cho Đức Chúa Trời (Rôma 11.36). Chức vụ của ông không do ông lựa chọn — ông được
chỉ định bởi sự kêu gọi thiêng liêng (các
câu 15, 16). Chức vụ của ông là qua Đức Chúa Trời, nghĩa là, chức vụ ấy được
thể hiện ra qua quyền phép trợ giúp của Đức Chúa Trời, bởi những dấu kỳ và phép
lạ và quyền phép của Đức Thánh Linh (câu
19). Đây là một chức vụ chuyên ngợi khen Đức Chúa Trời. Phaolô không khoe
khoang về những gì ông đã làm, mà khoe về những điều mà Đức Chúa Trời đã hoàn tất
qua ông. Lẽ đạo nói tới chức vụ của Phaolô là, nguyện vinh hiển đều thuộc về Đức
Chúa Trời.
(2) Vì chức vụ
của Phaolô là một chức vụ theo Kinh Thánh, đây cũng là một chức vụ rất cân đối. Phaolô đã phục vụ cho cả
người Do thái và dân Ngoại. Ông đã phục vụ cho cả người mạnh và kẻ yếu. Ông đã
phục vụ không những cho kẻ bị mất, mà còn cho người được cứu nữa. Ông đã phục vụ
không những cho các nhu cần thuộc linh của con người, mà còn cho các nhu cần về
thuộc thể của họ nữa.
Tôi
phải dẫn giải ở đây, có một nhu cần quan trọng về sự cân đối hôm nay trong vấn đề
các nhu cần về thuộc thể và thuộc linh. Có người ngày nay nói cho chúng ta biết,
chúng ta chỉ nên tìm cách cứu kẻ bị mất, trong khi nhiều người khác, đang tìm
cách nhắm vào nhiều hoàn cảnh hơn, phục vụ nhiều cho các nhu cần về thuộc thể. Một
chức việc theo Kinh Thánh sẽ không loại trừ chức vụ về ‘thuộc thể’ hay ‘thuộc linh’
với phí tổn của người khác [Nói chính xác theo Kinh
Thánh, phân biệt giữa các nhu cần ‘thuộc
linh’ và ‘thuộc thể’ là không đúng.
Tại sao các ‘chấp sự’ trong Công vụ
các Sứ đồ chương 6 có đủ tư cách về mặt thuộc linh (đối chiếu câu 3) nếu chức vụ của họ cho những người góa bụa chỉ là
‘thuộc thể’?]. Điều nầy không
những được minh họa chỉ bởi Phaolô và các vị sứ đồ, mà còn trong đời sống của
Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ nữa.
(3) Những câu
nầy phản ảnh triết lý về chức vụ của Phaolô. Vị sứ đồ có ý định rao giảng Tin
lành ở nơi chưa được rao giảng. Ông không chỉ trích người khác, những ai đã làm
như thế, nhưng ông đã có tâm tình của người đi tiên phong. Ông là người tiên
phong đi đầu.
(4) Chức vụ của
Phaolô là chức vụ của nhiều ưu tiên. Không những Phaolô có những nguyên
tắc theo Kinh Thánh và triết lý riêng tư về chức vụ — ông có nhiều thứ tự ưu
tiên. Ông sẽ không đi Rôma hay Tây ban Nha cho tới chừng nào ông đã rao giảng đủ
Tin lành trong các khu vực mục tiêu ưu tiên của ông. Khi tấm lòng ông hướng tới
Rôma và Tây ban Nha, ông sẽ không đi cho tới chừng nào ông đã trao món quà của
người Ma-xê-đoan và người A-chai cho thành Jerusalem.
(5) Chức vụ của
Phaolô kết hợp với kế hoạch. Các nguyên tắc và những điểm ưu tiên sẽ chẳng có giá trị
bao nhiêu nếu không có chương trình. Thế mà có nhiều Cơ đốc nhân ngày hôm nay dường
như xem sự ‘dẫn
dắt của Đức Thánh Linh’ ngang bằng với tính tự phát. Họ cảm thấy rằng
những Cơ đốc nhân thuộc linh phải luôn luôn ‘bay phần phật đến chỗ ngồi của họ’ Với sứ đồ
Phaolô thì không phải như thế đâu. Ông là một con người với những chương trình
xác định hẳn hòi. Giờ đây tôi phải nói thêm rằng các chương trình của Phaolô rất
linh động và đề tài hay thay đổi. Phaolô có thể hoặc không thể đến được Tây ban
Nha. Phaolô không đến thành Rôma như ông mong muốn. Hoạch định chẳng có gì là
sai; quá tự tin về tương lai mới là sai (đối
chiếu Giacơ 4.13...).
(6) Chức vụ của
Phaolô ràng buộc với sự cầu nguyện. Không một ai tin vào sự tể trị của Đức Chúa Trời hơn
Phaolô, nhưng Phaolô cũng là một tín đồ sốt sắng trong trách nhiệm của con người.
Chính Đức Chúa Trời là Đấng đã cứu người được chọn và làm chai cứng những người
khác (Rôma 9.15, 18, 22-23), nhưng không một người nào sẽ được
cứu nếu không nghe rao giảng Tin lành (Rôma 10.14-15). Cũng vậy, mạng lịnh đời đời của Đức Chúa
Trời đã được quyết định từ lâu rồi, nhưng Đức Chúa Trời đã ấn định mọi mục đích
của Ngài sẽ đạt được qua trách nhiệm của con người, và một bổn phận trong trách
nhiệm ấy chính là sự cầu nguyện.
Phaolô,
bản thân ông là một nhân vật quan trọng trong sự cầu nguyện, nhưng ông khao
khát những lời cầu nguyện của các thánh đồ vì ích cho ông. Quí bạn tôi ơi, nếu
sứ đồ Phaolô cần những lời cầu nguyện của các thánh đồ, chúng ta cần đến chúng
rất nhiều ngày hôm nay. Không những bạn phải cầu nguyện cho các nhu cần của
riêng mình và nhu cần của những người đang phục vụ tại gia và khắp mọi nơi, bạn
cũng cần đến những lời cầu nguyện của các thánh đồ đồng sự của mình nữa.
Vì
thế đây là một vài dấu chỉ riêng về một chức vụ thành công. Chức vụ ấy phải dựa
trên các nguyên tắc của Kinh Thánh. Chức vụ ấy phải dựa trên triết lý riêng và được
lèo lái bởi các trình tự ưu tiên. Chức vụ ấy bao gồm cả việc kế hoạch và cầu
nguyện. Hầu hết chức vụ ấy phải nương vào ân điển thiêng liêng. Nguyện Đức Chúa
Trời vùa giúp mỗi một người chúng ta biết phục vụ theo phương thức nầy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét