Tin
tức xấu, tin tức tốt
Phần giới thiệu
Tôi có một người bạn, ông ấy hay nói: “Tôi
đã nhận được một số tin xấu và một số tin tốt đây. Tin tốt, ấy là Đức Chúa
Jêsus Christ sẽ trở lại với đất. Bạn ơi, còn tin xấu là: Ngài làm bộ đấy!”
Giờ đây, sứ đồ Phaolô đã không sử dụng thành ngữ ‘tin tốt, tin xấu’ trong thời của chúng ta
ở Rôma 3, thế nhưng chương nầy chắc chắn được mô tả như đang
chứa một số tin tốt và một số tin xấu. Tin xấu không được giới thiệu trong chương
3, mà trong chương 1. Tin xấu, ấy là ai nấy đều thất bại không thoả mãn được mọi
đòi hỏi của Đức Chúa Trời về sự công bình, rồi vì vậy, mọi người đều phải gánh
chịu sự phán xét của Chúa. Ở chương 3, Phaolô kết luận rất mạnh mẽ phần bàn bạc
của ông, ông nói rằng chẳng ai có thể thoả mãn được mọi đòi hỏi của Đức Chúa Trời,
tóm tắt và đặt trường hợp ông nói vào các câu 9-20.
Không giống với các bản tin mà chúng ta đã đọc và xem trên vô tuyến
truyền hình, có một mặt rất tích cực. Mặc dù con người không thể tạo ra sự công
bình đủ để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời đã cung ứng một sự công
bình sẵn có cho mọi người trên cơ sở đức tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ. Đây là
những tin tức tốt lành của Tin Lành mà Phaolô
giới thiệu trong nửa phần sau của chương 3. Vì thế, trong chương nầy
chúng ta chuyển từ những tin xấu về sự phán xét sang các tin tốt nói tới sự xưng
công bình.
Những vấn đề đã
được trả lời (3.1-8)
Trước khi Phaolô hạ xuống bức màn sau cùng trong phần giới thiệu của
ông về tình trạng tội lỗi của con người, ông xử lý với hai vấn đề mà các đối thủ
người Do thái có thể dấy lên. Một, xử lý với các đặc ân của người Do thái; phần
kia xử lý với sự công bình của Đức Chúa Trời trong việc xét đoán người Do thái.
Các đối tượng người Do thái đang nằm ở tư thế nầy trong sự bàn luận
của Phaolô: “Từ những gì ông đã nói
trong chương hai, Phaolô ơi, chẳng có ích gì thực tiễn cho người Do thái cả”. Chúng ta phải
trông đợi Phaolô trả lời “đúng thế” cho vấn đề nầy.
Đặc biệt là như thế nếu chúng ta tán thành thần
học giao ước [covenant theology], là môn học
không thích phân biệt giữa Israel
và Hội Thánh. Nếu Israel và Hội Thánh được nối kết đời đời trong một thực thể, và
nếu tất cả lời hứa của Đức Chúa Trời cho Israel được
‘ứng nghiệm về mặt thuộc linh’ trong Hội Thánh, Phaolô gần như phải đồng ý rằng Do thái giáo chẳng
cung ứng ích lợi gì cho người Do thái nữa.
Sẽ là không thoả đáng
cho Phaolô khi cho rằng trở thành một
người Do thái sẽ là một đặc ân vì họ trước kia là những người canh giữ sự khải thị của Đức Chúa Trời. Vậy thì đâu là lợi ích cho người Do
thái trong lúc bây giờ? Lợi thế của việc trở thành một người Do thái, ấy là Đức
Chúa Trời vẫn có những lời hứa, tuy chưa ứng nghiệm, cho quốc gia Do thái và
chúng sẽ được hoàn thành theo từng chữ một. Chúng ta nhìn thấy điều nầy với đầy
đủ chi tiết hơn trong Rôma chương 11.
Vì thế, người Do thái đã được giao trách nhiệm với sự khải thị
thiêng liêng, một số trong đó đã được ứng nghiệm, nhưng phần nhiều trong số đó
vẫn còn sắp xảy đến. Dù vậy, trong chính những lời hứa chưa được ứng nghiệm nầy,
người Do thái phải để vào lòng.
Những lời hứa nầy bảo đảm như thế nào, đặc biệt với nhận định về sự
bất trung của Israel?
Chúng ta hãy đối diện với vấn đề nầy, Israel đã từ chối Đấng Mêsi của họ
nơi lần đến đầu tiên của Ngài. Họ đã kết án tử hình Ngài. Sự chối bỏ và sự vô
tín như thế không làm vô hiệu các lời hứa còn ở tương lai sao (câu 3)? Không đâu, vì Đức Chúa Trời cần
phải thành thực đối với chính mình Ngài, cho dù mỗi con người là kẻ nói dối. Đức
Chúa Trời phải thành tín, cho dù mỗi con người là bất trung (các câu 4-5). Cho nên người Do thái thật
có thể khoe về các ơn phước trong tương lai của Đức Chúa Trời giáng trên dân Israel
và có thể tin cậy vào sự thành tín của Đức Chúa Trời, tình trạng tội lỗi của
con người sẽ không có tác động gì cả.
Nếu Tội Lỗi Của
Con Người Làm Vinh Hiển Cho Đức Chúa Trời, Tại Sao Đức Chúa Trời Lại Trừng Phạt
Con Người? (3.5-8)
Nếu tội lỗi của con người cung ứng cơ sở làm bật lên sự công bình
của Đức Chúa Trời, thế thì Đức Chúa Trời được tôn vinh và được vinh hiển bởi tội
lỗi của con người. Điều nầy là thực, như tác giả Thi thiên đã viết: “… Cơn giận loài người hẳn sẽ ngợi khen Chúa” (Thi thiên 76.10a).
Phaolô khép nép nơi phần đề nghị tư tưởng khá lạ lùng nầy, song lại
biết rõ đây chính là tâm ý của đối thủ mình. Vậy tại sao Đức Chúa Trời lại hình
phạt tôi vì cớ tội lỗi tôi, khi thực sự tôi đang làm cho vinh quang Ngài soi toả
ra?
“Song nếu sự không công bình của chúng ta tỏ ra sự
công bình của Đức Chúa Trời, thì sẽ nói làm sao? Khi Đức Chúa Trời giáng cơn giận
thì Ngài không công bình sao? (Tôi nói như cách người ta nói)” (Rôma 3.5).
Phaolô mau chóng lướt qua lối suy nghĩ ảo tưởng nầy. Người Do thái
đã nhất trí với sự tận tụy của họ về sự thực Đức Chúa Trời sẽ phán xét tội lỗi
của dân Ngoại. Phaolô đưa đối thủ của ông đến với phần kết luận bất hợp lý
trong chỗ tự biện bằng cách chỉ ra rằng nếu Đức Chúa Trời phải noi theo nguyên
tắc nầy, Ngài sẽ chẳng xét đoán ai hết, thậm chí cả dân Ngoại. Và không một người
Do thái nào bằng lòng đi xa như vậy hết. Có nhiều lý do khác Phaolô có thể tiếp
tục diễn giải, nhưng lý do nầy là đủ để làm câm nín đối thủ của ông rồi.
Người Do thái đã nhấn mạnh quan điểm nầy thậm chí còn đi xa hơn bằng
cách cho rằng tin lành cứu rỗi của Phaolô tách rời ra khỏi luật pháp đã kích động
người ta phạm điều ác để rồi Đức Chúa Trời sẽ được khen ngợi. “Vậy thì, sao chúng ta không làm sự dữ cho được sự lành, như kẻ gièm
pha đã cáo và quyết rằng chúng ta dạy điều ấy?… Sự đoán phạt những người đó là
công bình” (Rôma 3.8).
Một lời vu cáo như thế rất khó mà tin được nên Phaolô đã từ chối
không để cho người ta phải chú ý đến trong một phút đồng hồ. Bất cứ ai nói ra một
câu như thế đang chứng minh sự thực họ đáng phải sa vào sự thạnh nộ của Đức
Chúa Trời.
Tin Xấu: Mọi
Người Đều Ở Dưới Tội Lỗi (3.9-18)
Vậy nên, người Do thái có được những lời hứa có một không hai, chưa
ứng nghiệm trong vai trò một quốc gia. Các đặc ân nầy dù cách nào đi nữa không
cung ứng cho sự trông cậy giả dối về ân huệ chỗ đứng của họ trước vành móng ngựa
phán xét của Đức Chúa Trời. Về vấn đề sự công bình riêng ở trước mặt Đức Chúa
Trời, người Do thái công bình bị hư mất, giống như người dân Ngoại bị xét đoán
vậy.
Để tóm tắt và nhấn mạnh sự xét đoán cả người Do thái và dân Ngoại,
Phaolô vạch ra một loạt những dẫn chứng, chủ yếu là từ Thi thiên, tất cả những điều
nầy chứng minh luận điểm của ông cho rằng không một người nào có thể nhận được
sự tán thưởng của Đức Chúa Trời bằng phương tiện công bình riêng của mình.
Các câu 10-12 cung ứng quan điểm chung về tình trạng băng hoại của
con người, nhấn mạnh tính phổ quát sự xét đoán của Đức Chúa Trời đối với con người.
Vì thế mới có phần nhấn mạnh cụm từ “chẳng có một
người”: “Chẳng
có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không. Chẳng có một người
nào hiểu biết, Chẳng có một người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời. Chúng nó đều sai
lạc cả, thảy cùng nhau ra vô ích; Chẳng có một người làm điều lành, dẫu một người
cũng không” (Rôma 3.10-12).
Sức mạnh của các câu nầy, ấy là con người không thể xưng công bình
ở trước mắt Đức Chúa Trời. Họ không tìm kiếm Đức Chúa Trời; họ bất khả trong việc
nhìn biết Đức Chúa Trời, và họ không làm lành.
Hết thảy mọi điều nầy được nhìn thấy từ nhận định thiêng liêng. Nói
như vầy không phải là nói con người không hề làm điều chi tốt đẹp và tử tế cho đồng
loại của mình. Phaolô không nói rằng con người chẳng có các tư tưởng tốt đẹp
hay khát vọng nào như có nhiều người xét nét. Ông đang nói rằng con người chẳng
có gì để tự khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời. Con người không có khả năng làm điều
chi đẹp lòng Đức Chúa Trời để kiếm được sự tán thưởng của Ngài, vì con người
sanh ra đã là kẻ thù của Đức Chúa Trời.
Có nhiều người bề ngoài rất tôn giáo và được xem là kỉnh kiền,
thành kính lắm, song họ không thực sự tìm kiếm Đức Chúa Trời. Họ đang tạo ra một
vị thần theo cách riêng của họ. Họ đang thờ lạy tạo vật thay vì Đấng Tạo Hoá (Rôma 1.18...). Có những người phấn đấu để
tuân giữ các điều răn của Đức Chúa Trời, nhưng chẳng có người nào giữ được
chúng dù là một điểm, và vì thế mà phạm cả thảy (Giacơ 2.10). Thu
nhỏ lại tình trạng tội lỗi của con người là ra sức trở nên giống như Đức Chúa
Trời, mà lại không có Đức Chúa Trời (Êsai 14.14).
Các câu 13-18 đi từ cái chung chung đến cái đặc biệt, mô tả tình
trạng băng hoại của con người như đã được chứng kiến qua các chi tiết trong phần
mổ xẻ của ông. Từ đầu đến chân, từ trong ra ngoài, con người được đánh dấu bởi
tội lỗi.
“Họng chúng nó như huyệt mả mở ra; Dùng lưỡi mình
để phỉnh gạt; Dưới môi chúng nó có nọc rắn hổ mang. Miệng chúng nó đầy những lời
nguyền rủa và cay đắng. Chúng
nó có chân nhẹ nhàng đặng làm cho đổ máu. Trên đường lối chúng nó rặc những sự tàn hại và khổ nạn, Chúng nó
chẳng hề biết con đường bình an. Chẳng có sự kính sợ Đức Chúa Trời ở trước mặt chúng nó”
(Rôma 3.13-18).
Sự đồi bại của tấm lòng đã làm ô uế miệng lưỡi chúng ta. Lời nói của
chúng ta đùa chúng ta đi; nó tỏ ra sự chúng ta thù nghịch với Đức Chúa Trời. Israel
đã lằm bằm, oán trách, họ chống nghịch Môise và Đức Chúa Trời (Xuất Êdíptô ký 16.2...). Trong Dân số ký 21 chúng ta đọc thấy sự than phiền của
dân Israel. Đức Chúa Trời sai một trận dịch rắn lửa giáng trên họ, Tôi tin, để
dạy cho họ biết rằng cái lưỡi có thể giống như hàm răng của con rắn đang phun
ra chất độc chết chóc. Với điều nầy, tác giả Thi thiên và Phaolô dường như đã
nhất trí.
Với cái miệng, chúng ta đang phun ra chất độc và với hai bàn chân,
chúng ta đang chạy tới điều ác. Sự hủy diệt và khốn khổ là công việc của hai
bàn tay chúng ta. Chúng ta chẳng biết tới lối bình an. Chắc chắn nhiều thế kỷ
chiến tranh đã làm cho điều nầy ra rõ ràng. Nhân loại chủ yếu đang nằm trong
cái khuôn xấu xí; chỉ có kẻ lạc quan với cặp mắt màu hồng mới chối bỏ điều nầy.
Thế nhưng con người chẳng có một điều kiện nào để đứng trước mặt một Đức Chúa
Trời công bình và thánh khiết mà xưng ra một sự công bình xứng đáng với sự sống
đời đời.
Vai Trò Của Luật
Pháp (3.19-20)
Một người Do thái thận trọng phải ra sức làm cho cùn nhụt quan điểm
của phần Phaolô luận bàn bằng cách đưa ra phần thuật ngữ chuyên môn. Phần lớn
những dẫn chứng trong Cựu Ước nguyên có phần tham khảo đến dân Ngoại chớ không
tham khảo đến dân Do thái. Mọi thứ đều tốt đẹp và mỹ mãn cả. Nhưng Luật pháp, là
những phần Cựu Ước kinh, trực tiếp nhắm vào những kẻ ở dưới luật pháp, nghĩa
là, người Do thái. Bất luận tham khảo nào nhắm đến dân Ngoại, chắc chắn nó cũng
được áp dụng tương đương với người Do thái. Vì vậy, người Do thái và dân Ngoại đều
bị xét đoán như nhau bởi các phần kinh Cựu Ước.
Người Do thái đã vặn cong mục đích của Luật pháp. Luật pháp không
hề được định cho phải khen ngợi một ai ở trước mặt Đức Chúa Trời, nhưng chỉ để
xét đoán con người mà thôi. Giống như chất liệu dùng để thử xem người ta có say
rượu hay không, cũng một thể ấy luật pháp đã được ấn định để xác minh con người
là tội nhân, ở dưới cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời. Luật pháp cung ứng tiêu chuẩn
về sự công bình, chớ không phải con người sẽ đạt tới sự công bình theo ý họ, để
chứng tỏ rằng họ bất khả xưng công bình theo cách con người mà phải tìm kiếm một
nguồn công bình ở ngoài họ. Đây là mục đích của tất cả các thứ của lễ trong thời
Cựu Ước. Khi Luật pháp tỏ ra tội lỗi của một người, Đức Chúa Trời đã cung ứng một
phương thức tế lễ hầu cho con người không phải mang lấy sự xét đoán của Đức
Chúa Trời.
Luật pháp không hề được ban ra để cứu người nào, mà để cho người ấy
thấy rõ rằng mình cần một Cứu Chúa: “Vì
chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước
mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi” (Rôma 3.20).
Giải Pháp Cho Nan
Đề Của Con Người. Một Sự Công Bình Theo Khuôn Mẫu Của Đức Chúa Trời (3.21-31)
Thi sĩ người La mã là Horace, đề ra đôi dòng hướng dẫn cho các tác
giả viết bi kịch trong thời của ông, phê phán người nào thường hay viện đến deus ex machina [kẻ đóng vai thần linh trong kịch cổ Hy lạp quyết
định sự kết thúc], để giải quyết các vấn đề gút mắc đã phát sinh
trong cốt truyện: ‘Đừng đem thần
linh lên sân khấu’, ông nói: ‘trừ
phi nan đề là sự việc đáng để cho một thần linh giải quyết nó’ (nec deus
intersit, nisi dignus uindice nodus inciderit).
Chắc chắn nan đề của con người theo như Phaolô đã tóm tắt, chính
là nan đề cần đến Đức Chúa Trời giải quyết nó. James Stifler đề xuất trong phần
chú giải của ông về sách Rôma rằng có ‘tiếng
thở ra nhẹ nhõm khi có thể nghe thấy được’ trong giới từ ‘nhưng’ giới thiệu câu 21. Chắc
chắn đây là trường hợp, vì đúng là nhẹ nhõm khi nhìn biết rằng Đức Chúa Trời đã
cung ứng cho một giải pháp cho tình thế tội lỗi chẳng đặng đừng của con người.
Tình thế chẳng đặng đừng của con người, ấy là họ bất khả phóng
thích mình ra khỏi xiềng xích của tội lỗi. Họ phải được cứu bởi ai đó khác hơn
chính mình họ và bởi ai đó không gánh chịu cùng một chứng nan y. Một kẻ đang chết
đuối không thể giúp được ai khác. Những gì con người không thể làm (cung ứng một sự công bình đáng nhận cho Đức
Chúa Trời), Đức Chúa Trời đã làm trong thân vị của Con Ngài, là Đức Chúa
Jêsus Christ. Đây là những tin tức tốt lành mà chúng ta đã từng trông đợi.
Một Định Nghĩa
Sơ Bộ Về Sự Công Bình. Sự công bình mà Phaolô ghi ra ở các câu 21-26 có
thể được định nghĩa như sau: “Tặng
phẩm ban cho người nào đem lòng tin cậy nơi Đức Chúa Jêsus Christ có khả năng
giúp đỡ cho người ấy đứng trước mặt Đức Chúa Trời Thánh Khiết, không bị xét đoán
và ở trong ân sũng của Ngài”. Sự công bình nầy của Đức Chúa Trời đã được
mô tả ở các câu 21-26.
(1) Nguồn Của
Sự Công Bình Chính Là Đức Chúa Trời. Phaolô viết: “Nhưng hiện bây giờ, sự công bình của Đức Chúa Trời, mà luật pháp và
các đấng tiên tri đều làm chứng cho, đã bày tỏ ra ngoài luật pháp” (Rôma 3.21, cũng đối chiếu câu 22). Sự công
bình nầy do Đức Chúa Trời cung ứng cho, chớ không phải do mọi nổ lực của con người
đâu. Đây là sự công bình của Đức Chúa Trời.
(2) Sự Công
Bình Nầy, Dù Không Do Luật Pháp Tạo Ra, Đã Được Hứa Cho Bởi Chính Luật Pháp. Từ chính câu
nầy (câu 21), chúng ta có thể thấy rằng
theo một ý nghĩa sự công bình của Đức Chúa Trời nầy có quan hệ với luật pháp Cựu
Ước, và theo một ý khác thì nó rất là khác biệt. Nó có quan hệ trong những gì
nó đã được toan liệu trước trong các lời tiên tri của Cựu Ước về Thân Vị và
Công Tác của Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta. Thêm nữa, luật pháp Cựu Ước
là một tiêu chuẩn cứng rắn về sự công bình, vì vậy khi Chúa chúng ta đến với trần
gian như một con người, luật pháp công bố Ngài là công bình, theo tiêu chuẩn của
Đức Chúa Trời. Không một án phạt nào về tội lỗi có thể được lập ra để nghịch lại
Đức Chúa Jêsus Christ Chúa chúng ta, theo luật pháp của Cựu Ước (Giăng 8.46).
Thế nhưng sự công bình nầy của Đức Chúa Trời, là những điều Phaolô
viết về sự độc lập hoàn toàn đối với Luật pháp, con người và mọi nổ lực hư
không của họ hòng làm thoả mãn mọi đòi hỏi của luật pháp đều không thể đạt tới được.
Cho nên sự công bình của Đức Chúa Trời không đến do tuân giữ luật pháp, theo như
người Do thái đã suy tưởng một cách sai lầm.
(3) Sự Công
Bình Của Đức Chúa Trời Có Hiệu Lực. Sự công bình của Đức Chúa Trời có hiệu lực
ở chỗ nó đầy đủ cho mọi tội lỗi của những ai từng sinh sống trong các thời đại
trước:
“…Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ
qua các tội phạm trước kia” (Rôma 3.25). Phần
bàn luận của Phaolô về tính hiệu lực của sự công bình của Đức Chúa Trời hủy bỏ
ngay sự trông cậy giả dối của người Do thái trong việc đạt tới sự công bình qua
việc tuân giữ luật pháp. Từ khi sự công bình của Đức Chúa Trời có hiệu lực và cứu
những ai có đức tin nơi Đức Chúa Trời trong thời Cựu Ước, tuân giữ Luật pháp
không những thất bại trong thời hiện tại; mà nó cũng chẳng cứu được ai nữa.
(4) Sự Công
Bình Của Đức Chúa Trời Chứng Minh Ngài Đang Tồn Tại. Stifler viết:
“Thắc mắc chính trong việc cứu con người
không phải là con người được kể công bình như thế nào, mà là Đức Chúa Trời cứ
giữ sự tha thứ bằng cách nào đấy thôi”.
Với phần tham khảo bổn tánh của Đức Chúa Trời dưới hệ thống Cựu Ước,
Đức Chúa Trời dường như ‘nhìn chỗ
khác’ khi con người phạm tội. Sự việc cho thấy rằng Đức Chúa Trời ít
công bình hơn khi xử lý dứt khoát với tội lỗi của con người. Khi cơn thạnh nộ của
Đức Chúa Trời đổ ra trên Con của Ngài, là Đức Chúa Jêsus Christ, không có một
cái bóng nghi ngờ nào chỉ ra Đức Chúa Trời đã cảm nhận như thế nào về tội lỗi.
Cách đây mấy năm, tôi là giáo sư dạy học với tiếng tăm kỷ luật,
khó chịu nhất trong trường học. Một tài xế xe bus nữ ít nhất đã nghĩ thế và dẫn
hai học sinh nam đến phòng tôi, chúng đã ném đá vào xe bus. Tôi đối diện với
hai học sinh nầy, nhưng đã được báo cho biết rằng một bị cáo không bị đưa ra
xét xử, và cậu nầy là con trai của thầy hiệu trưởng. Tôi đã trao đổi thật lâu với
thầy hiệu trưởng, ông cho rằng con ông được miễn vì mắt nó có đeo kính. Vì vậy,
tôi đến phòng của nó rồi xử lý luôn. Cho đến khi cậu nầy bị xử lý, có một đám
mây hồi hộp vây kín trên cả trường. Thầy Deffinbaugh xét xử con trai của thầy
hiệu trưởng, hay nó sẽ có một ngoại lệ? Đám mây tan đi ngay khi có tiếng roi quất
lên.
Cũng một thể ấy với bổn tánh của Đức Chúa Trời. Bổn tánh của Đức
Chúa Trời đang nằm trong chỗ bị thắc mắc. Trong mấy trăm năm, Đức Chúa Trời đã
cho qua những tội lỗi đã phạm trước đó. Ngài không thể bất công và bỏ sót tội lỗi
cho đến đời đời được. Tội lỗi phải bị hình phạt. Khi cơn thạnh nộ của Đức Chúa
Trời đã đổ ra trên Con Ngài, sự công bình của Đức Chúa Trời đã được xác nhận một
lần đủ cả. Điều nầy không những nhắm tới các tội lỗi trong quá khứ, mà còn những
tội lỗi trong hiện tại nữa. Đức Chúa Trời không thể bỏ qua tội lỗi được. Nếu
Ngài cần công bố loài người là công bình mà không cần phải trả giá cho tội lỗi,
Ngài sẽ mâu thuẫn với chính bổn tánh, sự thánh khiết và sự công bình của Ngài. Sự
công bình của Đức Chúa Trời đòi hỏi một sự trả giá cho tội lỗi. Cho nên, sự
công bình của Đức Chúa Trời nơi Đức Chúa Jêsus Christ xác minh bổn tánh của Đức
Chúa Trời bằng cách làm thoả mãn mọi đòi hỏi về sự công bình và sự thánh khiết.
(5) Sự Công
Bình Của Đức Chúa Trời Hoàn Tất Sự Cứu Rỗi Của Con Người. Khải thị về
sự công bình của Đức Chúa Trời không những xác minh Đức Chúa Trời, mà còn cứu rỗi
con người nữa. Sự cứu rỗi nầy đã được mô tả theo ba chiều kích trong các câu
21-26.
Thứ nhứt, ‘sự chuộc tội’ trong câu 24 mô tả ơn cứu
rỗi theo giới hạn của chợ nô lệ. Sự chuộc tội đề cập tới việc trả giá rồi
mua để phóng thích kẻ nô lệ. Khi một người đến với chợ nô lệ rồi trả giá mua một
nô lệ, người ấy đã chuộc kẻ nô lệ kia. Sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá
và sự đổ huyết Ngài ra là giá phải trả để chuộc lấy chúng ta. Chúng ta, giống
như dân Israel đã được chuộc ra khỏi vòng nô lệ ở Ai cập, đã được chuộc ra khỏi
vòng nô lệ của tội lỗi.
Thứ hai, ‘của lễ chuộc tội’ đưa chúng ta đến đền
thờ. Cụm từ nầy đã được sử dụng trong bản Kinh Thánh 70 (bản dịch Hy lạp về Cựu Ước) nói tới ‘chỗ dâng của lễ chuộc tội’ hay ‘ngôi thương xót’ đậy hòm giao ước trong
Nơi Chí Thánh. Theo ý nghĩa nầy, tội lỗi chúng ta đã được che đậy hay bôi xoá bởi
huyết đã đổ ra của Đức Chúa Jêsus Christ. Nhưng của lễ chuộc tội cũng mang ý tưởng
làm khuây khoả. Cơn giận của Đức Chúa Trời dậy lên là do tội lỗi của con người.
Cơn giận nầy đã được làm cho khuây khoả bởi sự chết của Đức Chúa Jêsus Christ
trên thập tự giá. Cơn giận thánh khiết của Đức Chúa Trời đã được thoả trong
công tác của Đấng Christ.
Sau cùng, ‘sự xưng công bình’ đưa chúng ta đến chỗ
xét xử. Đây là từ ngữ của luật pháp có ý nói tới việc công bố ra sự công
bình. Nếu Đức Chúa Trời xét đoán chúng ta theo cách công bình riêng của chúng
ta, Ngài phải tuyên bố chúng ta là không công bình và gian ác. Nhưng khi chúng
ta công nhận Đức Chúa Jêsus Christ là sự thay thế cho chúng ta — là Đấng đã chịu
chết trong chỗ của chúng ta và Ngài ban hiến sự công bình của Ngài trong chỗ khốn
khổ của chúng ta — thế là Đức Chúa Trời xưng chúng ta là công bình trên cơ sở
việc làm của Đức Chúa Jêsus Christ.
Bởi thuật ngữ nói tới chợ nô lệ, đền thờ và phòng xử án, chúng ta
thấy sự công bình nầy của Đức Chúa Trời được mô tả theo những giới hạn chỉ ra
tác dụng của nó trên tội nhân có lòng tin.
(6) Sự Công
Bình Của Đức Chúa Trời Đang Sẵn Có Cho Mọi Người, Và Bởi Đức Tin Mà Có. Sự công bình
của Đức Chúa Trời là rất thực đối với bổn tánh của Đức Chúa Trời, sự công bình ấy
đang sẵn có cho mọi người mà chẳng có một sự phân biệt nào hết. Giống như chẳng
có một sự phân biệt nào đối với Đức Chúa Trời trong sự xét đoán chung hết mọi
người là tội nhân, cũng một thể ấy, Đức Chúa Trời không tỏ ra thiên vị khi hiến
sự công bình ấy chỉ cho người Do thái.
Giống như sự công bình của Đức Chúa Trời không được phân cho con
người trên cơ sở chủng tộc của họ, cũng một thể ấy con người không xứng đáng
hay không kiếm được sự công bình đó. Sự công bình ấy được ban cho bởi ân điển
như một tặng phẩm rời rộng: “và
họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm
trọn trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Rôma 3.24). Ơn cứu rỗi của bạn không phải là
không có giá phải trả đâu, vì ơn ấy buộc Đức Chúa Trời phải trả giá bằng sự chết
của Con Ngài, nhưng ơn ấy bạn không thể trả nổi đâu vì bạn không thể làm gì để
kiếm được ơn ấy. Tặng phẩm sự công bình của Đức Chúa Trời phải được tiếp nhận bởi
đức tin, chớ không kiếm được bởi việc làm: “tức là sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi sự tin đến Đức Chúa
Jêsus Christ, cho mọi người nào tin …” (Rôma 3.22).
Vấn đề đối với hầu hết mọi người: không phải trở thành một Cơ đốc
nhân là quá khó đâu, việc ấy rất dễ thôi. Không cứ cách nào đó, chúng ta muốn
góp phần vào sự cứu rỗi của chúng ta. Nhưng Lời của Đức Chúa Trời dạy chúng ta
rằng những việc làm công bình của chúng ta giống như những miếng dẻ rách bẩn thỉu
trong cái nhìn của Đức Chúa Trời (Êsai 64.6). Chúng ta càng hiến nhiều việc
lành của mình cho Đức Chúa Trời, chúng ta làm mất lòng Ngài càng nặng nề thêm.
Bạn đang nương cậy trên mẫu việc lành nào để được cứu rỗi đời đời
vậy? Những miếng dẻ rách việc lành riêng của bạn, hay sự giàu có trong công trạng
của Đấng Christ. Bạn không phải bước đi giữa hành lang nhà thờ hoặc giơ tay lên
để trở thành một Cơ đốc nhân. Mọi sự bạn cần phải làm là công nhận tình trạng
khốn khổ về sự công bình của mình và tin cậy nơi sự công bình mà Đức Chúa Jêsus
Christ đã ban hiến trong chỗ của nó — một sự công bình theo khuôn mẫu của Đức
Chúa Trời, sự công bình đó kết quả trong sự sống đời đời. Hãy thôi đừng tin cậy
vào bản ngã mình nữa, mà hãy nương cậy duy một mình Ngài. Đấy là những tin tức
tốt lành của Tin Lành. Hãy đến mà suy gẫm về điều nầy, không một chỗ nào trong Rôma 3 là tin xấu cho Cơ đốc nhân cả.
HAI HÀM Ý CỦA
SỰ CÔNG BÌNH THEO KHUÔN MẪU CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Chương thứ ba
kết thúc với hai hàm ý về sự công bình nầy theo khuôn mẫu của Đức Chúa Trời. Trước
hết, không có một cơ sở nào cho việc khoe mình nơi phần của người Do thái, vì ơn
cứu rỗi được tiếp nhận như một tặng phẩm, chớ chẳng phải là một phần thưởng. Người
Do thái cũng không thể khoe mình vì ơn cứu rỗi được ban hiến cho cả người Do
thái và dân Ngoại trên cùng một cơ sở — ấy là đức tin.
Thứ hai, Tin lành về sự công bình của Đức Chúa Trời không tiêu trừ
luật pháp, vì luật pháp vẫn còn là tiêu chuẩn hợp lệ về sự công bình, và luật
pháp không hề được dự trù làm một phương tiện cho sự cứu rỗi. Luật pháp tỏ ra sự
phán xét chúng ta, và sự phán xét chúng ta buộc chúng ta phải từ chối những miếng
dẻ rách công bình bẩn thỉu của chúng ta và đem lòng tin cậy nơi Đấng Christ.
Câu sau cùng của chương 3 thực sự là một quá độ sang chương 4, ở đây
Phaolô sẽ chỉ ra tin lành của ông là nhất mực với sự dạy của Cựu Ước.