Minh
hoạ của Cựu Ước
về
sự xưng công bình bởi đức tin
(Rôma 4)
Phần giới thiệu
Fred
Bowlby, chủ tiệm rượu địa phương The Pig and the Whistle, đã trở
nên nổi tiếng vì Chiếc Ghế Phán Xét, một chiếc
ghế mây với nệm vàng, bị xích cố định trong tiệm rượu ở phía Tây Luân đôn. Bất
cứ ai dám ngồi lên chiếc ghế nầy sẽ được dâng rượu uống miễn phí. Một tay khéo
lừa trong thành phố đã chấp nhận lời thách thức và đã gục chết ngay tại chỗ.
Charlie Skinner, kẻ nát rượu trong thành phố, có lẽ đã không định ngồi trên chiếc
ghế ấy, nhưng vô tình ngồi lên ‘chiếc ghế giết người’ kia, thi thể ông ta đã được
thấy trong dòng sông, ông ta đã chết chìm ở đó.
Linh
mục Duddleswell cho rằng không có đức tin dẫn tới sự mê tín, và vì thế ông đã bị
chủ tiệm rượu kia thách thức đến ngồi lên chiếc ghế. Vị linh mục nầy tìm ra nhiều
lý do, nhưng lời đề nghị hiến cho hàng trăm đồng và áp lực của công chúng khiến
cho ông khó mà từ chối được. Ông đồng ý ngồi lên chiếc ghế mỗi ngày trong một
tuần vào đúng giờ ấn định. Khi tuần lễ trôi qua, ông tự hào vác cái ghế về nhà
rồi trưng bày nó trong phòng đọc sách của ông.
Được
người cộng sự ngợi khen vì lòng can đảm ấy, vị linh mục ngần ngại xưng nhận rằng
ông không có can đảm để làm việc ấy. Ông đã tìm được một cái ghế giống hệt
trong một cửa hàng bán đồ cổ, và với sự giúp đỡ của vợ chủ quán, đã đổi hai chiếc
ghế vào lúc giữa đêm. Chiếc ghế thật ông đã đem chôn ở trong vườn.
Tuy
nhiên, sự việc chẳng được lâu trước khi Fred Bowlby, chủ tiệm rượu, đến tại nhà
của vị linh mục để nói: “Cha ơi, ông biết đấy, đây không phải là Doomsday Chair”,
ông ta vừa nói vừa chỉ vào chiếc ghế đặt trong phòng. “Cha ơi, ông thấy đấy, sau khi Charlie Skinner
chết chìm tôi đã tìm được chiếc ghế giống hệt trong cửa hàng bán đồ cổ và đã
thay cho chiếc ghế chết người kia, vì sợ có ai đó sẽ chết nữa”.
Vị
linh mục hỏi: “Còn
cái chết thật kia thì ông đã làm gì với nó?” “Ồ, tôi đã chôn nó trong vườn rồi, nhưng vợ
tôi là người rất thích làm vườn, tôi biết bà ấy đã tìm được nó. Vì vậy tôi đưa
cái ghế thật cho cửa hàng bán đồ cổ kia rồi nói cho họ biết phải gửi nó về lại
một khi nó không còn thích hợp để trưng bày ở đây nữa”. Fred khen ngợi
đức tin của vị linh mục nầy, mặc dù chiếc ghế kia không phải là chiếc ghế chết
người, ông đã hành động với sự can đảm khi chấp nhận sự thách thức của người chủ
tiệm rượu.
Khi
Fred ra về, Linh mục Duddleswell ngã sụp xuống ghế salon của mình, mặt mày tái
mét. Ông mau chóng bảo người cộng sự của mình đào ngay một cái hố khác trong vườn
[Adapted from ‘The Doomsday Chair’ by Neil Boyd, Reader’s
Digest, April, 1978, pp. 100-104].
Giờ
đây, có một số người trong chúng ta sẽ muốn có loại đức tin đã được thể hiện bởi
Linh mục Duddleswell. Nhưng đức tin được thể hiện trong Rôma 4 là một vấn đề khác. Đây là loại đức tin bởi đó một người
được xưng nghĩa và được Đức Chúa Trời tuyên bố là công bình.
Ba
chương đầu tiên của sách Rôma đã được trình bày để minh chứng rằng hết thảy mọi
người đều sa vào sự phán xét của Đức Chúa Trời. Dân Ngoại: vì họ đã chối bỏ bằng
chứng tỏ ra trong sự sáng tạo (1.18-20);
người Do thái: vì họ thất bại không sống theo các tiêu chuẩn của Luật pháp (Rôma 2.17-29).
Các
tin xấu nói tới sự xét đoán chung nhất (Rôma 3.10-18) đã bị che phủ bởi những tin tốt nói tới một
sự công bình của Đức Chúa Trời được cung ứng cho hết thảy những ai tin theo Đức
Chúa Jêsus Christ (Rôma 3.21-26). Điều chi con
người không thể làm được bởi các nổ lực riêng của mình, Đức Chúa Trời đã làm
trong Thân Vị và công tác của Con Ngài, là Đức Chúa Jêsus Christ. Sự chết của
Ngài đã làm nguôi cơn giận công bình của Đức Chúa Trời đối với hạng tội nhân. Sự
chết và sự sống lại của Ngài cung ứng sự công bình mà con người cần phải được Đức
Chúa Trời xưng nghĩa cho. Đức tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ khiến cho con người
được sự công bình mà không cần phải tuân giữ Luật pháp.
Đối
với người Do thái, các tin tốt của Tin Lành nghe như một việc hoàn toàn mới mẻ.
Nó xuất hiện như đối kháng với Luật pháp Cựu Ước. Đây là lý do tại sao Phaolô hỏi: “Vậy, chúng ta nhân đức tin mà bỏ luật pháp hay sao? Chẳng hề như vậy!
Trái lại, chúng ta làm vững bền luật pháp” (Rôma 3.31).
Sự
chống báng đối với việc rao giảng Tin lành của Phaolô về sự xưng công bình bởi đức
tin hoàn toàn được biệt riêng ra bởi trường hợp của Ápraham,là người được xem
là tổ phụ của người Do thái. Nếu Ápraham được xưng công bình bởi đức tin, thì
chắc chắn sự dạy của Phaolô chẳng có gì mới cũng chẳng có bất trung với đức tin
của Israel trong kỷ nguyên Cựu Ước. Như chúng ta sẽ nhìn thấy ngay, ấy chẳng phải
Phaolô là người đã dứt bỏ ‘đức tin của tổ phụ chúng ta’ bèn là người Do
thái.
Ápraham được xưng
công bình bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi việc làm (4.1-8)
Phaolô
đã sốt sắng khảo sát tỉ mỉ tận ‘gốc rễ’ của người Do thái. Đâu là kinh nghiệm của
Ápraham trong vấn đề xưng công bình nầy? Ông được xưng công bình bởi đức tin
hay bởi việc làm? “Vậy,
chúng ta sẽ nói Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta, theo xác thịt đã được ích gì?” (Rôma 4.1). Nếu Ápraham được
xem là bởi việc làm mà được cứu, thế thì ông sẽ có một việc gì đó để mà khoe
mình. Và tất nhiên, bởi sự dính dáng sẽ có một việc gì đó người Do thái sẽ khoe
mình. Người Do thái đã sai khi cho rằng Ápraham được cứu bởi việc làm. Mục sư A.
T. Robertson cho chúng ta biết rằng “các thầy rabi có một
lẽ đạo nói tới những công trạng của Ápraham đã có thừa uy tín để chuyển giao
cho người Do thái” [Archibald T.
Robertson, Word Pictures in the New Testament (Nashville. Broadman
Press, 1931), IV, p. 350]. Nhưng Kinh Thánh nói rõ rằng Ápraham không thể
khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời vì ông được xưng công bình bởi đức tin, chớ
không phải bởi việc làm. “Vì Kinh Thánh có dạy chi? Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, và điều đó kể
là công bình cho người” (Rôma 4.3).
Nếu
sự xưng công bình dựa trên cơ sở mọi việc làm của chúng ta, chúng ta sẽ đối diện
với một vài nan đề. Thứ nhứt, con người sẽ có cớ mà khoe mình. Chắc chắn điều nầy
là sai, vì chúng ta dựng nên và được cứu để ngợi khen và làm sự vinh hiển cho Đức
Chúa Trời, chớ không phải để khoe về bản thân mình. Thứ hai, chúng ta làm việc
dưới một hệ thống bó buộc, thay vì ở dưới ân điển. Ở dưới ân điển, Đức Chúa Trời
được tự do ban cho chúng ta những gì chúng ta không đáng được, trong khi ở dưới
sự bó buộc, Đức Chúa Trời phải cung ứng cho chúng ta chính xác những gì chúng
ta đáng được — và, ai muốn như thế? Thứ ba, điều nầy ngược lại với cả Kinh Cựu
và Tân Ước, vì trong Sáng thế ký 15.6 chúng ta biết: “Áp-ram tin Đức
Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người”.
David
đã đồng ý với những gì Kinh Thánh ghi lại về sự xưng công bình bởi đức tin của
Ápraham, không phải bởi việc làm, vì ông viết: “Phước thay cho kẻ, lỗi mình được tha thứ, tội mình được che đậy! Phước
thay cho người mà Chúa chẳng kể tội lỗi cho!” (Rôma 4.7-8).
Phần
trưng dẫn nầy từ Thi thiên 32 nhấn mạnh mặt tiêu cực
của việc dựa vào, kể đến diễn ra trong sự công bình của hạng tội nhân. Tội lỗi
của người nào tin cậy nơi Đức Chúa Trời sẽ không được kể cho người nữa, mà được
Đức Chúa Trời tha thứ và quên hẳn đi. Giống như sự công bình của Đấng Christ được
gắn cho chúng ta vậy — nghĩa là, sự ấy được ghi vào sổ của chúng ta — để
những việc làm riêng của chúng ta không đứng nghịch cùng chúng ta.
Từ
ngữ “kể”
là một từ có tính cách đếm và nó chỉ ra việc đếm một điều gì đó, một là bên có
hoặc là bên mất của chúng ta. Khi chúng ta được xưng công bình bởi đức tin, tội
lỗi của chúng ta không còn được kể nghịch cùng chúng ta nữa, như chúng đáng phải
có, còn sự công bình của Đấng Christ thì được ghi vào bên có của chúng ta một
cách giàu ơn.
Tôi
từng biết một người ở trong nhà tù của Dallas County, là kẻ dùng cách nầy hay
cách khác để xui người giữ bản thành tích viết thành tích của ông ta rằng ông
ta bị tố cáo về một tội khác và sẽ được đưa ra xét xử mau chóng. Dù vậy, ông ta
vẫn không bị gạt ra khỏi tình trạng chịu án phạt. Trong con mắt của luật pháp, đã
có một bản án nghịch lại ông ta rồi. Án ấy được ‘kể’ cho ông ta. Nhưng trong trường
hợp của David, ông chẳng có một sự cáo giác nào trong hồ sơ của ông cả, dù là một
tội nhân, vì Đức Chúa Trời đã không gán tội lỗi cho ông.
Vậy,
cả Ápraham và David đều đưa ra bằng chứng cho cùng một lẽ thật. Trong Cựu Ước,
người ta không được xưng công bình bởi việc làm, mà bởi đức tin .
Ápraham được xưng
công bình trong khi vẫn còn là một dân Ngoại (4.9-12)
Như
vậy, Ápraham và David (và vì lẽ đó tất cả
các thánh đồ trong thời Cựu Ước) đều được xưng công bình bởi đức tin, không
phải bởi việc làm, là một viên thuốc đắng cần phải nuốt cho người Do thái. Nhưng
Phaolô không bằng lòng dừng lại ở đây, vì có nhiều điều cần phải tiếp thu từ đức
tin của Ápraham. Ít nhất người Do thái sẽ tự yên ủi mình trong sự thực Ápraham là
một người Do thái, chớ không phải là dân Ngoại. Nếu Ápraham được cứu là một người
Do thái, thế thì sao người Do thái không khẳng định mỗi người được cứu đều là
người Do thái đi (đối chiếu Công Vụ các Sứ Đồ 15.1…)?
Phaolô dìm hy vọng nầy xuống bằng cách chỉ ra Ápraham đã được xưng là công bình
đang khi còn là một người dân Ngoại.
Ở
cái nhìn đầu tiên, chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng các câu 9-12 được dự trù để
minh chứng rằng Ápraham đã được cứu bởi đức tin chớ không phải bởi việc làm; đặc
biệt, không phải bởi nghi thức cắt bì. Mặc dù đây là sự thực, nó vẫn chưa phải
là mục tiêu chính mà Phaolô đang phấn đấu để chứng minh. Mục tiêu mà Phaolô đang
phấn đấu là tính phổ quát của sự xưng công bình bởi đức tin và sự xưng công
bình nầy không phải chỉ dành cho người Do thái, mà còn cho dân Ngoại nữa.
Ápraham
được cứu khi là người Do thái hay khi còn là dân Ngoại? Ápraham được xưng công
bình là kẻ đã chịu phép cắt bì hay chưa chịu phép cắt bì? Ápraham, trong Sáng thế ký 15.6, được xưng công bình trên cơ sở đức tin 14 năm
trước khi ông chịu phép cắt bì (so sánh Sáng thế ký 15.6 với 17.24). Theo từng lời thì Ápraham đã
được cứu khi là một dân Ngoại, và không phải là một người Do thái, vì ông chưa
bước vào Do thái giáo qua phép cắt bì, ông cũng không có Luật pháp để giữ nữa. Đúng
là một trận đòn cho người Do thái nào cứ khư khư rằng một người không thể được
cứu mà không trở thành một người Do thái qua phép cắt bì và tuân giữ luật pháp (Công Vụ các Sứ Đồ 15.1)!
Vậy
thì, đâu là giá trị của phép cắt bì? Nếu bước vào Do thái giáo qua phép cắt bì
thì chẳng có pần gì trong sự xưng công bình của một người, vậy thì tốt ở chỗ
nào? Phép cắt bì không phải là nguồn của ơn cứu rỗi của chúng ta, mà chỉ là dấu
hiệu của ơn ấy mà thôi. Phép cắt bì là bằng chứng biểu tượng cho những gì đã xảy
ra ở bên trong người nào đã được xưng công bình bởi đức tin.
Sự
hiện diện của cái nhãn kiểm định trên xe hơi của bạn không khiến cho chiếc xe đó
đủ tư cách chạy trên đường, mà nó tiêu biểu cho kiểu dáng thấy được bằng mắt thường
thích đáng chạy trên đường. Mặt khác, dán một cái nhãn kiểm định trên xe với mấy
cái lốp xe mòn nhẵn, bộ phận giảm thanh lỗi thời, và bộ thắng không còn hữu hiệu
cho việc lái xe nữa thì chẳng có ích chi hết. Phép cắt bì là một con dấu, nó chứng
thực đức tin của Ápraham. Nó biểu hiện cho thấy rằng ông là công bình trong ánh
mắt của Đức Chúa Trời.
Kết
quả của mọi điều nầy, ấy là Ápraham là ‘tổ phụ’ của tất cả những ai được xưng công bình
bởi đức tin. Ông là tổ phụ của những người nào được xưng công bình bởi đức tin
và chưa gia nhập vào Do thái giáo và của tất cả những tín đồ nào cũng là người
Do thái. Là người Do thái hay dân Ngoại không cần phải mang lấy sự xưng công
bình của ai khác, cũng không phải tuân giữ Luật pháp và các nghi thức Cựu Ước. Yếu
tố quyết định duy nhứt là đức tin của người ấy nơi Thân Vị và việc làm của Đức
Chúa Jêsus Christ mà thôi.
Các lời hứa của
Đức Chúa Trời được nhìn nhận bởi đức tin, chớ không phải bởi tuân giữ Luật pháp
(4.13-16)
Ở
các câu 13-17, tôi thấy có phần nhấn mạnh khá sơ nét ở đây. Người Do thái không
những đang tìm kiếm sự công bình và sự xưng công bình riêng ở trước mặt Đức
Chúa Trời, mà còn tìm cách dự phần vào việc kinh nghiệm các lời hứa của Đức
Chúa Trời cho Israel như một dân tộc nữa. Ở các câu 13-17, Phaolô nói rõ ràng rằng giống như sự xưng công bình đạt
được bởi đức tin, cũng vậy các lời hứa của Đức Chúa Trời cũng nhìn biết được bởi
đức tin. Nếu tôi nhớ đúng, thì người Do thái đã tin rằng nếu có một ngày mà dân
tộc chịu ở trong luật pháp, thì Đấng Mêsi sẽ ngự đến. Nếu người Do thái nghĩ như
thế, họ sẽ được cứu bởi đức tin, nhưng tiếp nhận ơn phước của Đức Chúa Trời qua
cách tuân giữ luật pháp, Phaolô đặt sai lầm nầy vào các câu sau đây: “Vả, ấy chẳng phải bởi luật
pháp mà có lời hứa cho Áp-ra-ham hoặc dòng dõi người lấy thế gian làm gia nghiệp,
bèn là bởi sự công bình của đức tin” (Rôma 4.13).
Sẽ
chẳng cần gì đến đức tin nếu con người trở nên kẻ thừa tự nhờ vào Luật pháp, và
lời hứa sẽ chẳng có hiệu lực và hư không, vì việc duy nhứt Luật pháp có thể tạo
ra là sự giận và sự xét đoán (Rôma 4.14, 15). Cho nên Đức Chúa Trời có thể hành động
phù hợp với nguyên tắc của ân điển, và để cho con người có thể tin vào việc
kinh nghiệm mọi lời hứa của Đức Chúa Trời, nguyên tắc ấy dựa theo đức tin chớ
không căn cứ vào Luật pháp (4.16). Khi
ơn phước của Đức Chúa Trời căn cứ theo đức tin mà không căn cứ vào việc tuân giữ
Luật pháp, chúng được bảo đảm cho những ai đang thuộc về Luật pháp (người Do thái) và những kẻ nào không phải
là người Do thái (dân Ngoại), nhờ vào
đức tin nơi Đức Chúa Jêsus Christ. Một lần nữa, Ápraham là tổ phụ của hết thảy
chúng ta, nghĩa là của chúng ta hết thảy những ai tin bởi đức tin nơi Đức Chúa
Jêsus Christ.
Đức tin của Ápraham
giống với đức tin mà Tin Lành đòi hỏi (4.17-25)
Vậy
chúng ta nhận rằng mọi sự chúng ta lãnh hội từ Đức Chúa Trời phải chiếu trên cơ
sở đức tin, nhưng không phải đức tin của Ápraham rất khác biệt với đức tin đang
bị đòi hỏi hôm nay sao? Không phải đâu, Phaolô nói cho chúng ta biết, đức tin ấy
chính là điều mà ngày nay đòi hỏi đó:
“…
trước mặt Đức Chúa Trời, tức là Đấng người đã
tin, là Đấng ban sự sống cho kẻ chết, gọi những sự không có như có rồi” (4.17).
Jules
Henri Poincare, khi ca ngợi ký ức của ngừoi bạn nổi bật của mình, đã thốt ra mấy
câu nầy: “Người
ta tin nơi Đức Chúa Trời nhiều hay ít thì chẳng quan hệ gì; đó là đức tin chớ
chẳng phải Đức Chúa Trời làm ra nhiều phép lạ” [Wilbur M. Smith, Therefore, Stand (Grand Rapids.
Baker Book House, 1945), p. 192].
Với
câu nói nầy, Phaolô tuyệt không đồng ý, vì ông nói rất đơn giãn rằng chính đối
tượng của đức tin tạo ra tất cả sự khác biệt giữa thiên đàng và địa ngục.
Đức
tin của Ápraham đã đặt vào Đức Chúa Trời là Đấng có thể dựng nên một vật từ chỗ
không không. Mọi cơ hội của ông lâu nay muốn có một đứa con, đều là con số
không. Ông và Sara hầu như đã chết rồi. Tuy nhiên, Ápraham đã tin cậy Đức Chúa
Trời dựng nên một việc từ chỗ không không đó, một đứa con trai từ một cụ già và
một phụ nữ son sẻ.
Ápraham
cũng tin nơi một Đức Chúa Trời, Ngài có thể làm cho kẻ chết sống lại. Điều nầy
rất rõ ràng trong đức tin của ông nơi lời hứa có một con trai từ gan ruột của
ông và Sara, vì họ cả hai đều hầu như đã chết rồi không có khả năng sanh con
cái được nữa: “Người
thấy thân thể mình hao mòn, vì đã gần đầy trăm tuổi, và thấy Sa-ra không thể
sanh đẻ được nữa, song đức tin chẳng kém” (Rôma 4.19). Không một chỗ nào
cho thấy đức tin đặt nơi khả năng Đức Chúa Trời làm sống lại kẻ chết rõ ràng hơn
nơi sự Ápraham bằng lòng dâng Y-sác con ông làm của lễ thiêu (Sáng thế ký 22).
Thêm
nữa, đức tin của Ápraham là đức tin không đặt trên những trở ngại cho đức tin,
mà đặt trên đối tượng của đức tin. Có một chỗ khó khăn nhỏ trong nguyên văn ở
câu 19, một số bản dịch bỏ sót chữ “không”, một số bản dịch khác thì thêm chữ nầy
vào. Vì thế có những bản dịch đọc là: “người không thấy thân thể mình, giờ đây hầu
như đã chết rồi”. Ý ở đây là Ápraham không nhắm vào những trở ngại, mà
nhắm vào Đức Chúa Trời. Các bản dịch khác đọc như sau: “người thấy thân thể mình hao mòn …”.
Khi ấy chúng ta hiểu rõ phần nhấn mạnh đặt trên sự kiện Ápraham vốn biết rõ mọi
khó khăn, song đức tin chẳng kém.
Dù
là thế nào đi nữa, mục đích cho thấy Ápraham, dầu có những trở ngại nhiều về
phía con người, đã tin cậy Đức Chúa Trời làm y như Ngài đã hứa. Đức tin của ông
nhìn qua mọi chướng ngại và chú tâm vào đối tượng của đức tin, là Đức Chúa Trời.
Vì cớ loại đức tin nầy, Ápraham đã được xưng công bình trước mặt Đức Chúa Trời.
Giờ
đây các kinh nghiệm của Ápraham chẳng phải là không có phần ứng dụng cho chúng
ta hôm nay. Vì đấy chính là loại đức tin mà Đức Chúa Trời đòi hỏi nơi con người
ngày hôm nay. Chúng ta phải công nhận mình chỉ là vô dụng khi bước vào thiên đàng
của Đức Chúa Trời bằng sự công bình riêng của mình, còn Ápraham được xưng công
bình để trở thành cha của một dân lớn. Chúng ta phải tin Đức Chúa Trời cung ứng
sự công bình cho chúng ta giống như Ápraham đã tin Đức Chúa Trời làm ứng nghiệm
lời hứa về một đứa con. Cũng vậy, chúng ta phải tin nơi một Đức Chúa Trời, Ngài
có quyền phép trên sự chết và mồ mả. Ápraham đã tin nơi Đức Chúa Trời “là Đấng ban sự sống cho kẻ chết” (câu 17). Vì thế, chúng ta phải tin nơi Đức
Chúa Jêsus Christ là Đấng đã sống lại từ kẻ chết.
Giờ
đây chẳng phải vì cớ ông mà Kinh Thánh ghi rằng: “Điều đó
được kể cho người”, mà cũng vì cớ chúng ta nữa, điều đó cũng được
kể cho chúng ta, là những kẻ tin nơi Ngài là Đấng đã làm cho Jêsus Chúa chúng
ta sống lại từ kẻ chết, Ngài là Đấng bị nộp vì tội lỗi chúng ta, và sống lại vì
sự xưng công bình chúng ta (Rôma 4.23-25).
Cho
nên loại đức tin đòi hỏi nơi Ápraham đặc biệt chính là loại đức tin đòi hỏi nơi
người ta hôm nay. Luật pháp không cứ cách nào đó được biệt riêng ra, thay vì thế,
luật pháp được tái khẳng định bởi Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ. Phương thức
cứu rỗi của Đức Chúa Trời không hề thực thi bởi việc làm, và luôn luôn được thực
thi bởi ân điển nhờ đức tin.
Phần ứng dụng
(1) Sự cứu rỗi
không có được bởi việc làm, mà chỉ bởi đức tin. Rõ ràng là con người chẳng có thể
góp phần gì vào ơn cứu rỗi của mình. Mọi sự đều thuộc về Đức Chúa Trời; mọi sự đều
thuộc về ân điển. Và nguyện chúng ta đừng tạo ra một nổ lực nào xưng nhận bất cứ
phần nào trong ơn cứu rỗi của chúng ta bằng cách cho rằng đức tin là việc làm của
chúng ta, thậm chí vì đấy là sự ban cho của Đức Chúa Trời (đối chiếu Êphêsô 2.8, 9; Công Vụ các Sứ Đồ 13.48, 16.14).
Trong
tuần lễ nầy, tôi có trao đổi với một người đã cảm thấy rằng chúng ta phải đóng
góp cái gì đó vào ơn cứu rỗi của chúng ta. Tôi nói cho ông ấy biết tội lỗi của
con người giống như có hai bàn tay dính đầy mỡ. Khi tôi ngồi trên xe và có mỡ
trên hai bàn tay của tôi, mọi sự tôi chạm đến cũng đều bị vấy bẩn với mỡ. Khi
tôi bước vào nhà với hai bàn tay đầy mỡ, vợ tôi báo cho tôi biết đừng đụng đến
một thứ chi cho tới chừng nào hai bàn tay tôi đã được sạch. Cũng vậy, hai bàn
tay của con người bị bẩn với tội lỗi và chẳng có chi hết, nhưng huyết của Đấng Christ
có thể tẩy sạch chúng. Nếu chúng ta tìm cách đến gần Đức Chúa Trời bằng phương
tiện việc làm của hai bàn tay mình, những việc làm ấy sẽ bị nhuốm bẩn với tội lỗi
và không đáng nhậm đối với Đức Chúa Trời. Chúng ta phải làm theo y như lời của
bài hát dạy chúng ta: “Tay tôi chẳng mang
theo thứ gì; tôi chỉ có bám lấy thập tự giá của Ngài mà thôi”.
(2) Đức tin là
con đường duy nhứt nhận lãnh ơn phước của Đức Chúa Trời. Không những Phaolô nói cho chúng ta
biết được cứu là bởi đức tin, mà ơn phước của Đức Chúa Trời còn đến duy chỉ bởi
đức tin mà thôi. Tuần vừa qua hết thảy chúng ta đều thành khẫn cầu nguyện cho
người bạn yêu dấu kia được hồi phục. Câu trả lời cho sự cầu nguyện đó không dựa
trên sự chúng ta làm đúng theo những luật lệ thiêng liêng đâu, mà dựa trên đức
tin. Chúng ta thường quên rằng con đường cứu rỗi đó cũng là con đường hạnh phước
duy nhứt.
(3) ‘Tiệc
Thánh’ không vận chuyển ân điển như có người nói với chúng ta; tiệc thánh làm
biểu tượng cho ân điển. Có những người cứ khư khư giữ lấy giáo lý nói tới sự tái
sanh qua phép báptêm, họ khẳng định rằng một người không thể được cứu nếu không
chịu phép báptêm. Sai lầm nầy chỉ cập nhật hoá sai lầm của người Do thái, họ khẳng
định một người không thể được cứu nếu không chịu phép cắt bì. Phép báptêm không
phải là nguồn của ơn cứu rỗi, song chỉ là một biểu tượng của ơn ấy. Đó là một hành động bề ngoài làm biểu tượng
cho sự thực rằng chúng ta, bởi đức tin, đã được đồng hoá với Đấng Christ trong
sự chết, sự chôn và sự sống lại của Ngài.
Bàn
Tiệc của Chúa, mà chúng ta giữ mỗi tuần, không có cách nào chuyển tải ân điển
cho bạn được đâu, bạn tôi ơi. Nó làm biểu tượng cho ân điển của Đức Chúa Trời
ra khả thi qua Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng tự mặc lấy xác thịt con người và
Ngài đã chịu chết trong chỗ của tội nhân, và Ngài ban hiến sự công bình của Đức
Chúa Trời cho hết thảy những ai tin nơi Ngài.
Nguyện
Đức Chúa Trời giúp cho bạn gạt qua một bên mọi sự tin tưởng vào bất kỳ việc làm
nào mà bạn có thể làm được, và hãy hạ mình xuống tiếp nhận công việc mà Đức
Chúa Jêsus Christ đã hoàn tất rồi trên thập tự giá.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét