Những
bổn phận Cơ đốc
(Rôma 13)
Phần giới thiệu
Sách
Rôma là một lời công bố ra ân điển của Đức Chúa Trời cho loài người. Ân điển ấy
rất cần kíp vì loài người là tội nhân, chỉ ở dưới án phạt của sự xét đoán vì họ
đã chứng tỏ tình trạng thù nghịch của họ với Đức Chúa Trời bằng cách chối bỏ sự
sáng mà họ đã được cung ứng cho (Rôma 1-3a). Ơn cứu
rỗi của Đức Chúa Trời đã được cung ứng cho trong Thân Vị và việc làm của Con Độc
Sanh của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng, như một sự thay thế,
gánh lấy tội lỗi của loài người và là Đấng ban hiến sự công bình của Ngài trong
chỗ khốn khổ của chúng ta (Rôma 3b-5).
Từ
khi mỗi Cơ đốc nhân xưng nhận mình đã chết đối với tội lỗi và đã sống lại đời mới
trong Đấng Christ, lại còn tiếp tục sống trong tội lỗi, cả hai đều không thể biện
bác và không thể chấp nhận được (chương
6). Mặc dù đời sống tin kính là cần thiết, song về mặt con người là rất
khó, vì sự yếu đuối hiển nhiên của xác thịt (chương
7). Ân điển của Đức Chúa Trời một lần nữa được tỏ ra trong Thân Vị và Công
tác của Đức Thánh Linh, là Đấng mặc lấy cho Cơ đốc nhân quyền phép để sống đời
sống tin kính (chương 8).
Ân
điển của Đức Chúa Trời là một sự ưu ái cho kẻ không xứng đáng, và kết quả Israel
đã sai khi cho rằng Đức Chúa Trời bị buộc phải cứu từng dòng dõi theo phần xác
của Ápraham trên cơ sở nguồn gốc dân tộc hoặc là kết quả của việc làm. Dù loài
người đòi hỏi sự công bình, họ không thể đòi hỏi lòng thương xót hay ân điển được (Rôma 9). Dân Israel vô tín bị xét đoán, không những vì Đức
Chúa Trời không chọn cứu từng người Do thái, mà vì những kẻ vô tín đã chối bỏ điều
khoản công bình của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ, bằng cách nổ lực thiết lập
sự công bình riêng của họ bởi việc làm (chương
10). Ân điển của Đức Chúa Trời được thực thi sẵn có cho dân Ngoại qua sự chối
bỏ của người Do thái, nhưng sự chối bỏ của Israel chưa phải là toàn phần hay thường
trực. Đức Chúa Trời hiện đang kích thích người Do thái phải ganh tỵ bởi ơn cứu
rỗi của dân Ngoại, và Ngài sẽ kết thúc chương trình của Ngài với dân Ngoại rồi
phục hồi dân Israel đúng địa vị và ơn phước nổi bật của nó như đã được hứa cho (chương 11).
Ở
chương 12, Phaolô bắt đầu gây ấn tượng cho độc giả của ông về mọi bổn phận của
ân điển. Ở các câu 1 và 2, ông quyết rằng phản ứng hợp lẽ duy nhứt đối với ân điển
của Đức Chúa Trời, ấy là sự dâng đời sống của chúng ta với tính cách hy sinh
cho Đức Chúa Trời trong sự hầu việc thờ phượng. Ở các câu 3-8, Phaolô cho chúng
ta biết sự phục vụ của chúng ta không những là một đáp ứng đối với ân điển, mà
còn là một kết quả của ân điển ấy nữa. Đức Chúa Trời đã hiến cho từng tín đồ một
lượng ân điển phục vụ và bởi các phương tiện ân tứ thuộc linh ‘ân điển’
nầy, mỗi Cơ đốc nhân đều có một vai trò quan trọng phải đóng trong thân thể của
Đấng Christ. Ở các câu 9-21, Phaolô nhắc cho chúng ta nhớ rằng chúng ta cũng
nên phản ảnh ân điển của Đức Chúa Trời trong đời sống hàng ngày của chúng ta và
trong các mối quan hệ.
Khi
chúng ta tiếp cận với chương 13, chúng ta đến với vấn đề liên quan tới các bổn
phận Cơ đốc của chúng ta. Ở các câu 1-7, bổn phận của chúng ta đối với nhà cầm
quyền của con người đã được bàn tới. Các câu 8-10 mô tả bổn phận của chúng ta
phải sống theo luật yêu thương. Các bổn phận của chúng ta được chú trọng nhiều
bởi sự thực mà chúng ta phải sống như những kẻ trông đợi sự tái lâm không bao
lâu nữa của Đức Chúa Jêsus Christ Chúa chúng ta để thiết lập Vướng Quốc trên đất
của Ngài (các câu 11-14).
Bổn phận của Cơ
đốc nhân đối với những loại quyền lực hiện có (13.1-7)
Đối
tượng của các bổn phận của Cơ đốc nhân đối với nhà cầm quyền sâu xa hơn cả lý
thuyết trong thời của Phaolô. Đức Chúa Jêsus Christ đã bị kết án là phản bội (Giăng 19.12) và chính bản thân Phao-lô đã bị cáo giác là
làm loạn nữa (Công vụ các Sứ đồ 16.20, 21).
Người
Do thái trong thòi của Phao-lô đã có nhiều thắc mắc về quyền hạn của nhà cầm
quyền La mã (đối chiếu Mathiơ 22.16, 17; Mác 12.14, v.v...). Người Do thái bản thân họ rất kiêu ngạo
về tình trạng độc lập của họ (đối chiếu Giăng 8.33). Một số người Do thái đã kích động nổi loạn (đối chiếu Công vụ các Sứ đồ 5.34-37) và chính một cuộc nổi loạn của
người Do thái đã dẫn tới chỗ thành Jerusalem bị hủy diệt vào năm 70 SC.
Nhà
cầm quyền La mã đã xem Cơ đốc giáo đơn thuần là một đảng phái trong Do thái
giáo (thí dụ, Công vụ các Sứ đồ 18.12-17), rồi vì lẽ đó đã nhìn Cơ đốc
nhân với một sự nghi ngờ y như đã nhìn người Do thái vậy. Trong Công vụ các Sứ đồ 18.2 chúng ta thấy một tham khảo vắn tắt đến
sự trục xuất người Do thái ra khỏi thành Rôma. Một tham khảo trong nền văn chương
cổ đại cung ứng một sự lý giải khá thú vị về sự trục xuất người Do thái nầy.
Seutonius,
trong quyển “Cuộc
sống của Claudius” [Life of Claudius] (xxv. 2), đã nói rằng hoàng đế “đã trục xuất người Do thái ra khỏi thành Rome
vì họ thường xuyên nổi loạn với sự xúi giục của Chrestus” (một cách nói
trại đến Christus) [Quoted by F. F. Bruce, The
Epistle of Paul to the Romans (Grand Rapids. Wm. B. Eerdmans, 1963), p. 14].
Mục đích rất đơn giản, vì nhà cầm quyền La mã quá hiểu rõ đảng cách mạng trong
Do thái giáo rồi khi cả Chúa Jêsus cùng các môn đồ Ngài đều đã bị cáo giác là đang
ra sức lật đổ nhà cầm quyền La mã, bất cứ một sự bất tuân nào của người dân sẽ được
xem xét với sự ngờ vực. Để đặt vấn đề trong những giới hạn đơn giản nhất, cộng đồng
Cơ đốc có hai điểm nghịch lại họ khi Rome chú tâm đến. Họ không thể có được một
sự đương đầu nào với Rome.
Mãi
cho đến bây giờ Phaolô là người hiện đang có những đặc quyền công dân La mã. Chính
ở dưới ngọn cờ bảo hộ của Rome mà Phao-lô đã giảng đạo. Chính binh lính La mã đã
bảo hộ cho Phao-lô tránh khỏi bàn tay của
những đối thủ người Do thái. Nhưng đã đến lúc Cơ đốc giáo không còn được xem là
người bạn của Rome nữa. Khi sự bắt bớ nghiệt ngã bắt đầu, thật là quan trọng
khi có bất cứ một sự bắt bớ nào diễn ra vì những lý do chính đáng.
Lời
lẽ của Phao-lô về nhà cầm quyền rất là quan trọng đối với độc giả của ông vì lý
do khác. Ở chương 12, Phao-lô đã dạy cho những người nào được kể danh của Đấng
Christ là Cứu Chúa phải tránh sự trả đũa và lấy ác báo ác. Cơ đốc nhân phải chừa
sự báo trả ấy cho sự báo ứng thiêng liêng (12.19).
Các câu 1-7 của chương 13 là sự giải thích phần dạy dỗ của Phao-lô, vì chúng ta
được dạy cho biết nhà cầm quyền dân sự là một trong những công cụ của Đức Chúa
Trời qua đó sự báo ứng thiêng liêng sẽ được thực thi trong đời nầy.
Phân
đoạn nầy trong Rôma 13 cũng rất quan trọng cho
hàng độc giả trong thế kỷ thứ 20 nữa. Trong nhiều quốc gia trên thế giới, ai cũng
thấy rằng mỗi công dân đều nổ lực để gian lận không đóng thuế. Vào ngày 15
tháng 4 trên xứ sở của chúng ta, trạng thái tâm lý ấy có rất là nhiều. Đối với
Cơ đốc nhân thì không thể, hay ít nhất không nên như thế.
Ở
Hoa kỳ ngày nay, dường như đã có trạng thái tâm lý về một loại chính quyền duy
nhứt trong đó Chúa chúng ta được tán thưởng là một người dân chủ. Trong thời buổi
khi các quốc gia mới được thiết lập qua nền cách mạng gần như là mỗi ngày, chúng
ta Cơ đốc nhân phải có cái đầu của mình ngước thẳng lên để đối xử theo Kinh
Thánh các tình huống nầy.
Chương
nầy có nhiều điều để nói với chúng ta bằng phương thức hàm ý. Chỉ một trong các
vấn đề mà Phao-lô xử lý bằng phương thức loại suy, ấy là án phạt của quan quyền.
Chúng ta hãy nhìn vào Kinh Thánh vì một câu đến từ Đức Chúa Trời về các điểm
quan trọng nầy:
(1) Mệnh lệnh (câu la). Lời dạy của Phao-lô rất thẳng thừng và đơn giản: “Mọi người phải vâng phục các đấng cầm quyền trên mình”
(Rôma 13.1a) [‘Các đấng cầm quyền’ được đề cập tới ở đây không phải là quyền lực
thiên sứ như Oscar Cullmann đã bàn, song là những nhà cai trị trên đất mà chúng
ta phải thần phục họ. Đối chiếu Bruce, p. 236, fn. 1. C. K. Barrett, A
Commentary on the Epistle to the Romans (New York. Harper and Row, 1957),
pp. 244-245. Giăng Murray, The Epistle to the Romans (Grand Rapids. Wm.
B. Eerdmans, 1968), II, pp. 147-148]. Như vậy, rõ ràng là Cơ đốc nhân cần
phải thuận phục đối với bậc cầm quyền của họ, dù là quốc gia hay địa phương.
(2) Tiền đề (câu 1b). Lý do tại sao một mạng lịnh như thế đưa ra được thấy trong
phần thứ hai của câu 1: “vì chẳng có quyền
nào mà không đến bởi Đức Chúa Trời, các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định”
(Rôma 13.1b). Đức
Chúa Trời là nguồn của mọi quyền bính. Các
đấng cầm quyền, khi ấy tồn tại bởi quyền bính được chuẩn y cho họ bởi quyền bính
tối thượng, là chính mình Đức Chúa Trời.
Giờ
đây tôi muốn bạn lưu ý câu nầy cho thật kỹ, vì nó cho chúng ta thấy đâu là cơ sở
trên đó một chính phủ được công nhận và được tuân theo. Ấy chẳng phải mọi phẩm
chất của nó, dù nó là dân chủ, chuyên quyền hay bất cứ loại gì. Một nhà cầm quyền
không được thiết lập hợp pháp và đúng đắn vì hình thức của nó làm thoả mãn mọi
sự ưa thích của chúng ta. Một nhà cầm quyền cần phải được công nhận và vâng
theo bởi ưu điểm của sự nó hiện hữu: “ … các quyền đều
bởi Đức Chúa Trời chỉ định”. Câu nầy có ý nói rằng nhà cầm quyền
của Trung Hoa Đỏ đã được chỉ định bởi Đức Chúa Trời. Câu nầy có ý nói rằng nhà
cầm quyền của nước Nga đã được thiết lập bởi uy quyền mà Đức Chúa Trời giao cho
nó. Câu nầy thậm chó có ý nói rằng chế độ Phát-xít ở nước Đức có mặt ở đó bởi ý
muốn (chiếu chỉ)
của Đức Chúa Trời.
Tôi
muốn sự việc phải rõ ràng là chẳng có một kẻ hở nào trong câu thứ nhứt nầy. Mỗi
linh hồn cần phải đầu phục theo nhà cầm quyền của con người; bất cứ và từng nhà
cầm quyền, bởi ưu điểm của sự nó hiện hữu, thực vậy, là nhà cầm quyền mà chúng
ta phải phục theo.
(3) Nguyên tắc
có cần (câu 2). Nguyên tắc của sự Phao-lô bàn bạc
rất là rõ ràng: “Cho
nên ai chống cự quyền phép, tức là đối địch với mạng lịnh Đức Chúa Trời đã lập;
và những kẻ đối địch thì chuốc lấy sự phán xét vào mình” (Rôma 13.2). Vì một Cơ đốc
nhân (hay bất cứ ai khác) chống cự
nhà cầm quyền là chống cự Đấng mà từ Ngài quyền bính đã được ban ra. Nếu Đức
Chúa Trời đã chỉ định sự hiện hữu của một nhà cầm quyền và chúng ta bất tuân đối
với nó, không những chúng ta kháng cự nhà cầm quyền, mà còn kháng cự Đức Chúa
Trời nữa. Vì cớ đó, chúng ta sẽ gánh chịu án phạt [Bảng
Kinh Thánh King James dịch ‘damnation’
[nguyền rủa] là không chính xác, vì hình phạt đời đời không được nhìn nhận đúng
ở đây. Thay vì thế, chúng ta sẽ chấp nhận từ ngữ ‘phán xét’ hay ‘án phạt’].
(4) Mục đích
của nhà cầm quyền (các câu 3-4). Lý do cho sự chúng ta
vâng theo nhà cầm quyền không phải là tùy hứng, mà được thấy trong mục đích của
Đức Chúa Trời khi dựng lên nhà cầm quyền.
“Vả, các quan quyền không phải để cho người làm
lành sợ, mà để cho người làm dữ sợ. Ngươi muốn không sợ quyền phép chăng? Hãy
làm điều lành, sẽ được khen thưởng; vì quan quyền là chức việc của Đức Chúa Trời
để làm ích cho ngươi. Song nếu ngươi làm ác, thì hãy sợ, vì người cầm gươm chẳng
phải là vô cớ; người là chức việc của Đức Chúa Trời để làm ra sự công bình và
phạt kẻ làm dữ” (Rôma 13.3-4).
Không
có một lý do nào để Cơ đốc nhân phải sợ nhà cầm quyền vì mục đích của nó là phạt
kẻ làm dữ và để ban thưởng cho kẻ nào làm điều lành. Từ khi Cơ đốc nhân làm
theo điều lành và tránh điều ác, thì chẳng có một mâu thuẫn nào giữa Cơ đốc
nhân và nhà cầm quyền cả.
Trong
các câu 3 và 4, có một vài điểm rất qyan trọng cho Cơ đốc nhân:
(1) Có một sự
phân biệt giữa chức năng giữa Hội thánh và nhà nước. Quan quyền được mô tả như
một người hầu việc Đức Chúa Trời, nhưng theo ý nghĩa người ấy phục vụ mục đích
của Đức Chúa Trời bằng cách kềm chế điều ác và ban thưởng cho điều lành. Cơ đốc
nhân cũng là một người phục vụ Đức Chúa Trời; không phải chức việc của sự thạnh
nộ (sự phán xét),
mà là chức việc của sự thương xót (tin
lành). Một chức việc đều có bầu không khí sinh hoạt hợp pháp của nó. Thực vậy,
khi chức việc của nhà cầm quyền làm tốt công việc của mình, nó làm tốt chức việc
của tin lành (đối chiếu I Timôthê 2.1-3).
(2) Chúng ta
học biết rằng sợ bị phạt là một sự ngăn trở đối với điều ác. “Ngươi muốn không sợ quyền phép chăng? Hãy làm điều lành …” (Rôma 13.3b). Có người hôm nay nói rằng sợ bị phạt chẳng có tác dụng
gì trên ai đó hay không có ai phạm vào một tội ác. Phao-lô nói rằng sợ bị phạt
là một sự ngăn trở.
(3) Chúng ta
có thể xem một sự bàn bạc rất tế nhị khi ủng hộ sự hình phạt của quan quyền: “…vì người cầm gươm chẳng phải là vô cớ…” (Rôma 13.4c). Việc mang một thanh gươm bởi các quan quyền tiêu biểu
cho uy quyền của họ và quyền thực thi hình phạt sự chết nữa [“Trong thời xưa và hiện tại, gươm đã được mang trước các bậc
cầm quyền. Nó chỉ ra quyền bính của quan quyền và phần tham khảo đến gươm ở đây
nằm giữa nhiều bằng chứng mà Kinh Thánh đưa ra nghịch lại với nổ lực hủy bỏ án
phạt tử hình cho tội phạm trong các nhà cầm quyền Cơ đốc” Henry Alford, The
Greek Testament (Chicago. Moody Press, 1958), II, p. 447]. [“Cơn giận của Đức Chúa Trời, là điều thuộc về ngày sau rốt (2.5), có khả năng được bày ra trong hiện
tại (1.18); một phương tiện bởi đó cơn
giận trong tương lai nầy được lường trước là gươm của quan quyền. Cách phát biểu
nầy gợi lại thuật ngữ ius gladii, bởi đó nói tới uy quyền (mà tất cả quan quyền cao hơn đều có)
khi đưa ra án tử hình (đối chiếu Tacitus, Histories, iii. 68).” C. K.
Barrett, p. 247] [“Gươm mà nhà cầm quyền mang có vai trò quan trọng nhất trong
trang bị của người không những là dấu hiệu của uy quyền, mà còn là dấu hiệu của
quyền giữ và sử dụng nó khi đưa ra điều chi mà một thanh gươm làm. Không nhất
thiết phải có ý giữ và sử dụng gươm là dự tính đưa ra án tử hình đâu. Nó có thể
được người ta giữ và sử dụng để chỉ ra sự kinh khiếp của án phạt chưa đến nỗi
chết. Nhưng bao gồm cả án tử hình khi bản chất của tội ác đi ngược lại với những
gì thanh gươm biểu hiện và thi hành. Chúng ta chẳng cần nhiều ở cách dùng của
Tân Ước khi đưa ra phần tham khảo nầy. Gươm thường được kết hợp với sự chết như
công cụ của sự hành hình (đối chiếu Mathiơ 26.52; Luca 21.24; Công vụ các Sứ đồ 12.2; 16.27; Hêbơrơ 11.34, 37; Khải huyền 13.10)” Murray, II, pp. 152-153]. Dường như ý ấy được
ám chỉ ở đây.
Trong
Sáng thế ký chương 9, Đức Chúa Trời thiết lập ra án tử hình (câu 6). Có người cho rằng hình phạt của
quan quyền, mặc dù được thực thi trong phạm vi của Cựu Ước, chắc chắn có thể
không tìm được vị trí trong thời đại của chúng ta. Nhưng lời của chính mình
Chúa Jêsus chỉ ra trách nhiệm nầy của nhà cầm quyền.
“Phi-lát hỏi Ngài rằng: Ngươi chẳng nói chi với
ta hết sao? Ngươi há chẳng biết rằng ta có quyền buông tha ngươi và quyền đóng đinh
ngươi sao? Đức
Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu chẳng phải từ trên cao đã ban cho ngươi, thì ngươi
không có quyền gì trên ta; vậy nên, kẻ nộp ta cho ngươi là có tội trọng hơn nữa” (Giăng 19.10-11).
Khi
Chúa chúng ta đứng trước mặt Philát, Ngài nói rõ rằng quyền tử hình nằm ở trong
thẩm quyền của nhà cầm quyền. Thực vậy, quyền nầy được phê chuẩn ‘từ trên cao’.
Vấn
đề thực nằm ở đàng sau công việc của quan quyền là bổn tánh của Đức Chúa Trời. Người
nào chối bỏ khả năng lấy đi mạng sống con người của nhà cầm quyền đang tìm cách
thuyết phục chúng ta một là Đức Chúa Trời của Cựu Ước không phải là Đức Chúa Trời
ở trong Tân Ước, hoặc Đức Chúa Trời không cứ cách nào đó đã thay đổi. Nhưng Đức
Chúa Trời không thay đổi và Ngài ghét tội lỗi. Sự thánh khiết của Ngài đòi hỏi
một sự trả giá cho tội lỗi, và trong đời nầy nhà cầm quyền con người được đã được
giao cho trách nhiệm báo trả điều ác (câu
4).
(1) Động lực
cho sự vâng phục (câu 5). Ở câu 5, chúng ta được
cung ứng cho hai lý do phải vâng phục. Lý do thứ nhứt đã được giải thích rồi; đó
là động lực sợ
bị phạt. Đây là động lực chính của người không tin Chúa. Chúng ta sẽ
thấy một sự thay đổi lớn trong đạo đức cộng đồng nếu án phạt cho tội lỗi bị cất
đi. Thực vậy, điều nầy chính xác là những gì đang diễn ra trong thời của chúng
ta.
Nhưng
có một động lực hoàn toàn là Cơ đốc cho sự vâng phục, ngoài động lực sợ bị phạt.
Động lực nầy là lương
tâm trước mặt Đức Chúa Trời. Bạn thấy đấy, nếu tôi một mình đi xuống
con đường kia trong những giờ rất khuya vào ban đêm, có thể tôi tuyệt đối tin rằng
chẳng thấy có một viên cảnh sát nào hết, nhưng lương tâm tôi ở trước mặt Đức
Chúa Trời khiến cho tôi tin rằng phải làm điều chi là đúng đắn vì Đức Chúa Trời
biết mọi sự. Tội lỗi của tôi sẽ không bao giờ quên sự tra xét của con mắt toàn
tri của Ngài. Thậm chí khi sợ bị phạt không phải là yếu tố, tôi không muốn làm
buồn lòng Cha thiên thượng của tôi vì cớ sự bất tuân.
Vào
ngày 15 tháng 4, tôi có thể xin khấu trừ hình thức thuế thu nhập của tôi mà
không bị thách thức. Nhưng Đức Chúa Trời biết mọi tư tưởng và động lực của tôi.
Tôi thấy trong chính đời sống tôi việc sợ bị phạt không cứ cách nào đó đã dâng
cao thành sợ làm buồn lòng Đức Chúa Trời. Mọi hành động của chúng ta đáng phải được
thực hiện như ‘làm cho Chúa’ [“Phao-lô sử dụng từ ‘lương
tâm’ rất thường xuyên và hiển nhiên ý nghĩa là lương tâm đối với Đức Chúa
Trời (đối chiếu Công vụ các Sứ đồ 23.1; 24.16; II Côrinhtô 1.12; 4.2; 5.11; I Timôthê 1.5; 3.9; II Timôthê 1.3). Ý nghĩa ở đây, ấy là chúng ta
phải tự mình phục theo, phát xuất từ ý thức bổn phận đối với Đức Chúa Trời. Tư
tưởng, ấy là chúng ta không những phải phục theo vì bất tuân sẽ dẫn chúng ta đến
án phạt, mà còn vì có bản chất bổn phận đối với văn tự bất chấp ý chỉ của Đức
Chúa Trời về nguy cơ mà việc làm theo điều ác sẽ gây ra. Một mình Đức Chúa Trời
là Chúa của lương tâm và vì lẽ đó làm bất cứ điều chi phát xuất từ lương tâm
hay vì cớ lương tâm mà làm điều đó từ ý thức bổn phận đối với Đức Chúa Trời. Điều
nầy được phát biểu rõ ràng trong I Phierơ 2.13: ‘Vì
cớ Chúa, hãy phục theo mọi phép tắc loài người lập lên, hoặc vua, như đấng rất
cao’. Vì thế, sự cần
thiết không nằm ở chỗ hậu quả không tránh được (đối chiếu Mathiơ 18.7; Luca 21.23; I Côrinhtô 7.26)
mà ở chỗ đòi hỏi về đạo đức (đối chiếu I Côrinhtô 9.16).” Murray, II, p. 154].
(2) Dòng cuối
cùng — nộp trả (các câu 6-7). Dường như đối với tôi dòng
cuối cùng trong nhiều phân đoạn Kinh Thánh thường tìm lối của chúng đi thẳng
vào hầu bao của chúng ta. Trong các câu 6 và 7, vị sứ đồ cho chúng ta biết rằng
không những chúng ta có bổn phận phải vâng phục, mà còn phải nộp thuế cho các bậc
cầm quyền nữa: “Ấy
cũng bởi lẽ đó mà anh em nộp thuế, vì các quan quyền là đầy tớ của Đức Chúa Trời,
hằng giữ việc ấy. Phải trả cho mọi người điều mình đã mắc: nộp thuế cho kẻ mình
phải nộp thuế; đóng góp cho kẻ mình phải đóng góp; sợ kẻ mình đáng sợ; kính kẻ
mình đáng kính” (Rôma 13.6-7).
Giống
như một chức việc của tin lành là xứng đáng với công giá của người ấy (đối chiếu I Côrinhtô 9), cũng vậy một chức việc của Đức Chúa Trời nơi
nhà cầm quyền đáng được trả công về tiền bạc. Quan quyền hiến đời mình cho việc
giữ gìn công lý và sự bình an, cũng vậy họ phải được ủng hộ về tài chính. Sự ủng
hộ nầy được rút ra từ các thứ thuế, và (thuế) gián tiếp và (thủ tục) trực tiếp.105, 106, 107
Hơn
cả việc nộp các thứ thuế và sự vâng phục ở ngoài mặt, có nhu cần cho tinh thần
thuận phục được tỏ ra bằng cách dâng sự tôn trọng cho các quan quyền. Chúng ta
nên dành sự tôn trọng cho các quan quyền bởi ưu điểm của địa vị họ.
(3) Một bài học
từ sự vâng phục. Tôi tin, có ở đây một bài học cần phải được tiếp thu về sự vâng phục giống
như cần có từ con cái đối với cha mẹ chúng và từ những người làm vợ đối với chồng
của họ. Sự vâng phục nầy là sự vâng phục dựa theo địa vị chớ không dựa theo
trát đòi. Sự vâng phục nầy không chủ yếu được tác động bởi kẻ mà chúng ta vâng
phục, mà là một hành động vâng phục và đầu phục đối với chính mình Chúa chúng
ta.
Bổn phận của
chúng ta phải chu toàn Luật yêu thương (13.8-10)
Trong
khi các câu 1-7 tập trung sự chú ý của chúng ta vào bổn phận của Cơ đốc nhân phải
đầu phục với các quyền bính hiện hữu, các câu 8-10 hướng sự chú ý của chúng ta
vào bổn phận với con người nói chung. Trong khi bổn phận đặc biệt của chúng ta đối
với quan quyền là phải đầu phục, bổn phận của chúng ta đối với con người nói
chung là phải yêu thương họ. “Đừng mắc nợ ai chi hết, chỉ mắc nợ về sự yêu thương nhau mà thôi,
vì ai yêu kẻ lân cận mình ấy là đã làm trọn luật pháp” (Rôma 13.8).
Dường
như không may cho tôi là câu nầy đã được áp dụng sai để xét đoán việc mượn tiền.
Tỉ như là trường hợp với cách diễn giải của Phillip về câu nầy: “Đừng mắc nợ ai chi hết,
chỉ mắc nợ về sự yêu thương nhau mà thôi”. Đừng hiểu lầm tôi; tôi không biện
hộ việc thiếu nợ. “Kẻ
nào mượn là tôi tớ của kẻ cho mượn” (Châm ngôn 22.7). Nhưng mặc dù
Kinh Thánh không khuyên sự mắc nợ, Kinh Thánh cũng không xét đoán tình trạng nầy
[“Phù hợp với phần loại suy Kinh Thánh, không thể cho rằng
chúng ta không hề mắc các bổn phận về tiền bạc, chúng ta không thể mượn từ người
khác trong trường hợp có cần (đối chiếu Xuất Êdíptô ký 22.25; Thi thiên 37.26; Mathiơ 5.42; Luca 6.35). Nhưng nó xét đoán tính bừa bãi
trong đó chúng ta mắc phải những món nợ và đặc biệt tính dửng dưng thường tỏ ra
khi phải thanh toán chúng: ‘Kẻ ác mượn, mà không trả
lại’ (Thi thiên 37.21). Một vài việc dẫn tới sự
quở trách nặng hơn trên nghề nghiệp của Cơ đốc nhân hơn là sự tích lũy các món
nợ rồi từ chối không chịu trả chúng” Murray, II, pp. 158-159].
Cái
điều làm cho tôi phải kinh ngạc nhất là sự giải thích mâu thuẫn của những người
hiểu phân đoạn Kinh Thánh nầy, họ cứ xét đoán tình trạng nợ nần và kế đó tiến
hành nói rõ loại nợ nần đã mắc. Quan điểm ấy có thể được gom lại như thế nầy: “Đừng mắc nợ ai điều
gì, trừ những khoản không bị xem thường”. Nếu chúng ta cần phải hiểu
Phao-lô đang xét đoán việc mượn tiền, khi ấy ít nhất chúng ta hãy khăng khăng
trong phần ứng dụng rồi từ chối không mượn tiền cho bất cứ ai và từng loại mua
bán.
Theo
tôi hiểu thì ở cách dịch (và giải thích) thông
thường các câu 1-7 và các câu 8-10 là đang nói tới mọi bổn phận của chúng ta. Phao-lô
đang nhấn mạnh ở các câu 8-10 bổn phận của chúng ta đối với loài người nói
chung. Ông đang nói rằng bổn phận duy nhất và chính yếu của chúng ta là phải
yêu thương họ. Cách dịch của Sanday và Headlam phản ảnh ý nghĩa nầy: “Món nợ duy nhứt của
bạn không trả được, ấy là tình yêu thương — một món nợ mà bạn luôn luôn nổ lực để
thanh toán cho đầy đủ, nhưng sẽ không bao giờ thành công trong việc thanh toán”
[William Sanday and Arthur C. Headlam, A Critical
and Exegetical Commentary on the Epistle to the Romans (Edinburgh. T. &
T. Clark, 1968), p. 373].
Phao-lô
không nói rằng chúng ta không bao giờ mắc nợ, mà nói rằng chúng ta phải mau mau
và nhanh chóng trả từng món nợ trừ ra món nợ tình yêu thương. Chúng ta sẽ phấn đấu
để yêu thương, nhưng chúng ta không bao giờ xem món nợ là ‘đã trả đủ’.
‘Luật yêu thương’ [‘Luật yêu thương’ nầy ban đầu nhắm vào
tình cảm của chúng ta là Cơ đốc nhân ‘với
nhau’ (câu 8), nhưng nó trở thành
chung chung trong các câu 9 và 10 vây quanh ‘kẻ
lân cận’ của chúng ta. Vì vậy Cơ đốc nhân được truyền cho phải yêu vợ mình (Êphêsô 5.25), kẻ lân cận của họ (Rôma 13.9), và thậm chí là kẻ thù của họ nữa (Mathiơ 5.44-45)] vây quanh toàn bộ Luật pháp của Cựu
Ước giống như nó gắn liền với bổn phận của chúng ta đối với đồng loại của mình.
Những điều răn được nhắc tới trong câu 9 là những điều răn thuộc nửa phần thứ
nhì trong 10 điều răn của Đức Chúa Trời, những điều nầy xác định các bổn phận
trong xã hội của chúng ta. Tình yêu thương không hề tìm cách gây hại cho kẻ lân
cận mình, chỉ làm điều chi là ích cho mình. Vì thế, tuân giữ ‘Luật yêu thương’
là tuân giữ Luật pháp Cựu Ước có liên quan tới kẻ lân cận của chúng ta. “Sự yêu thương chẳng hề
làm hại kẻ lân cận; vậy yêu thương là sự làm trọn luật pháp” (Rôma 13.10).
Điểm
nầy được xem là sai sót của Do thái giáo. Họ đã xuyên tạc Luật pháp theo một phương
thức phục vụ lợi ích cá nhân và làm hại cho người khác (đối chiếu Mác 7.6-13; đặc biệt ở các câu
10-11). Trọng tâm của Luật pháp là điều chỉnh cách xử sự của cá nhân phù hợp
với ích lợi của xã hội theo diện rộng. Trọng tâm của dòng người Pharisi là vặn
cong Luật pháp thành sự phục vụ của cá nhân với phí tổn của người khác.
Trong
những câu nầy chúng ta cũng được cung ứng cho một manh mối cho thấy thái độ đúng
đắn đối với Luật pháp y như nó gắn bó với ân điển vậy. Thắc mắc thực sự là đây:
Nếu Phao-lô xét đoán việc làm là phương tiện cho ơn cứu rỗi và ân điển, tại sao
giờ đây ông truyền cho chúng ta phải làm theo những việc rất đặc biệt chứ? Phải
chăng các mạng lịnh trong Tân Ước không phải là sự lặp đi lặp lại luật pháp Cựu
Ước sao?
Chúng
ta phải nhớ rằng những đòi hỏi của luật pháp không phải là xấu; chúng rất thánh
khiết, công bình và tốt lành (Rôma 7.12). Luật pháp được dự trù như một tiêu chuẩn của
sự công bình. Luật pháp là một tiêu chuẩn hay một mục tiêu là công bình có giá
trị như nó vốn có trong Cựu Ước. Nó xác định tội lỗi (Rôma 7.7) và đồng thời xác định
sự công bình.
Vấn
đề với Luật pháp, ấy là những gì nó đòi hỏi nó không tạo ra được. Đó là một mục
tiêu rất cao, nhưng không cung ứng phương tiện. Trong phương thức nầy, nó tỏ ra
sự bất xứng của con người không làm đẹp Đức Chúa Trời qua các việc làm của mình
được.
Ân
điển của Đức Chúa Trời cho Cơ đốc nhân, ấy là không những Đức Chúa Trời ban hiến
ơn cứu rỗi và sự tha tội cho người, Ngài còn cung ứng động lực và phương tiện để
sống một đời sống tin kính nữa — ấy là phải tuân giữ Luật pháp. Thay vì phấn đấu
với nổ lực của con người, Đức Chúa Trời tạo ra tình yêu thương trong đời sống của
Cơ đốc nhân, tình yêu nầy tác động người phải hoàn thành những gì Luật pháp đòi
hỏi. Nói cách khác, Đức Chúa Trời khiến cho tấm lòng vui thích trong những gì
Luật pháp đòi hỏi [“Nhưng Đức Chúa Trời đòi hỏi nhiều nơi
người tín đồ hơn là nhà nước đòi hỏi. Nhà nước nói: ‘Ngươi không làm tổn thương kẻ lân cận ngươi’. Đức Chúa Trời phán:
‘Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình’
và thiếu hụt tình yêu nầy luật pháp không sao làm trọn được. Tình yêu không phải
chỉ làm ‘trọn’ thôi đâu, mà còn làm
phu phỉ luật pháp nữa. Điều nầy rất khó cho con người trong nhà nước tự nhiên của
họ, nhưng không khó cho người khi tấm lòng của người được dựng nên giống như tấm
lòng của Đức Chúa Trời. Chính bởi nguyên tắc yêu thương đơn sơ song đầy quyền lực
nầy mà Cơ đốc nhân không những làm trọn luật pháp, mà còn tìm được sự tự do của
mình trong đó nữa. Tình yêu thương chiếm lấy chỗ của văn tự và làm cho mọi bổn
phận đạo đức không những ra sáng sủa, mà còn là vui thích nữa”. Stifler, p.
219]. Những đòi hỏi của luật pháp được thỏa mãn, nhưng trong một cách thức
khác hơn việc tuân giữ Luật pháp.
Chính
Thánh Linh của Đức Chúa Trời là Đấng tác động bên trong chúng ta để ban cho
chúng ta tình yêu thương tìm cách chúc phước cho người khác với mọi tổn phí của
chúng ta. Luật pháp vẫn có hiệu lực như một tiêu chuẩn bởi đó đánh giá sự chúng
ta bày tỏ ra sự công bình của Đức Chúa Trời, nhưng không hề được như thế, cũng
sẽ không được như thế, những phương tiện bởi đó cá nhân có thể đạt được sự tán
thưởng của Đức Chúa Trời.
Sống
‘không dưới luật
pháp, mà dưới ân điển’ không có nghĩa là không có tiêu chuẩn nào hết,
không có mạng lịnh nào hết, không một sự vâng phục nào là cần thiết. Tân Ước đầy
dẫy những mạng lịnh và Đức Chúa Trời là công bình, ngay thẳng trong việc mong đợi
chúng ta làm thoả mãn chúng, xuất phát từ sự biết ơn, từ ao ước muốn thờ lạy
Ngài trong sự thờ phượng Cơ đốc, và bởi quyền phép Đức Chúa Trời đã cung ứng
cho trong Đức Thánh Linh. Ngài đang vận hành trong chúng ta ‘vừa muốn vừa làm theo ý
tốt Ngài’ (Philíp 2.12-13).
Các bổn phận của
chúng ta trong ánh sáng sự tái lâm không bao lâu nữa của Ngài (13.11-14)
Những
gì Phao-lô đã nói ở các 1-10 giờ đây được bàn bạc từ lập trường của động lực
chúng ta muốn tuân giữ các bổn phận Cơ đốc của chúng ta, cả về nhà cầm quyền và
con người nói chung. Điều nầy được phản ảnh trong cách dịch câu 11 ở bản Kinh
Thánh NASV: “Và điều nầy làm cho biết thời kỳ …”.
Sở thích của Phao-lô trong mấy câu nầy không phải để tóm tắt các chi tiết của
thuyết mạt thế [eschatology]
[Nghĩa là, giáo lý nói tới nhiều việc còn trong tương lai], nhưng
thay vì thế, tác động Cơ đốc nhân phải cẩn trọng và vâng phục qua một sự nhắc
nhớ rằng sự tái lâm của Chúa chúng ta đang gần rồi. Thực vậy sự cứu rỗi của
chúng ta (đối chiếu Rôma 8.18...) giờ đây
gần hơn bao giờ hết. Phao-lô đang nói tới kỷ nguyên hiện tại là ‘ban đêm’
và kỷ nguyên phục hưng trong tương lai là ‘ban ngày’. Chúng ta phải tỉnh thức ra khỏi sự mê
ngủ (câu 13) và sự dửng dưng. Chúng
ta phải cởi bỏ y phục của đêm tối bản ngã cũ và mặc lấy áo xống công bình ban
ngày của chúng ta.
Không buông thả
nữa, mà phải tiết độ (các câu
13-14). Hai
câu sau cùng làm cho mỗi Cơ đốc nhân phải bứt rứt, vì chúng nói tới nhu cần cho
Cơ đốc nhân không phải là buông thả cho tư dục của xác thịt, mà là phải kềm chế
chúng: “Hãy
bước đi cách hẳn hoi như giữa ban ngày. Chớ nộp mình vào sự quá độ và say sưa,
buông tuồng và bậy bạ, rầy rà và ghen ghét; nhưng hãy mặc lấy Đức Chúa Jêsus
Christ, chớ chăm nom về xác thịt mà làm cho phỉ lòng dục nó” (Rôma 13.13-14).
Những
thứ đã bị xét đoán trong câu 13 là những thứ quá độ của xác thịt. Phao-lô, ở
câu 14, tóm tắt lại bằng cách nói họ ‘chớ
chăm nom về xác thịt mà làm cho phỉ lòng dục nó’. Tội lỗi của xác thịt, những điều
Phao-lô lưu ý là những thứ nuông chiều, quá độ. Một chút rượu không phải là tội
lỗi (đối chiếu I Timôthê 5.23), nhưng say sưa là tội lỗi. Tình dục trong
hôn nhân là thánh khiết (Hêbơrơ 13.4, v.v...), nhưng lang chạ là tội lỗi.
Có
lẽ chẳng có tuổi tác nào quá đáng trong đó bị biến thành hàng hóa và được nhấn
mạnh như tuổi tác của chúng ta. Chúng ta, là con cái của ‘ban ngày’, phải đặt loại sự sống nầy
qua một bên, và phải sẵn sàng chờ đón sự tái lâm của Chúa chúng ta.
Phần ứng dụng
Trong
ánh sáng sự tái lâm của Chúa chúng ta, chúng ta có hai trách nhiệm như sau:
(1) Phải phục theo nhà cầm quyền. Trách nhiệm nầy có thể được
tóm tắt trong ba từ: (a) Vâng phục — tuân
giữ Luật pháp. (b) Nộp — các thứ thuế, (c) Cầu nguyện
— cho bậc cầm quyền (I Timôthê 2.1-3).
(2) Chúng ta cần phải yêu thương ‘kẻ lân cận’ mình, và bởi việc làm theo điều này thì làm trọn mọi đòi hỏi
của Luật pháp (đối chiếu Rôma 8.4).
Rõ
ràng là Phao-lô đã viết trong một thời kỳ khi nhà cầm quyền lo chu toàn trách
nhiệm của họ trong việc ngăn trở điều ác và ban thưởng cho người công bình. Nhưng
đâu là thời kỳ khi đây không phải là trường hợp? Trong nhận định về bản chất tổng
quát của lời khuyên của Phao-lô, chúng ta sẽ hỏi và đáp một vài câu quan trọng:
Những thắc mắc
liên hệ tới Rôma 13.1-7
(1) Có phải có những lúc khi Cơ đốc nhân sẽ bất tuân đối với
nhà cầm quyền?
Đúng,
nếu nhà cầm quyền buộc một Cơ đốc nhân phải làm điều chi rõ ràng là ngược lại với
Lời của Đức Chúa Trời. Khi một người bất tuân, người ấy phải gánh chịu hình phạt
mà nhà cầm quyền đưa ra vì cớ sự bất tuân. Khi nhà cầm quyền có quyền hành đã được
Đức Chúa Trời ủy thác, thẩm quyền của nhà cầm quyền là phụ thuộc theo lịnh lạc
của Đức Chúa Trời nếu họ bất đồng. Đaniên (Đaniên 6) đã bất tuân luật lệ của người Mê-đi - Ba-tư do Darius
ký cấm cầu nguyện trong 30 ngày. Tuy nhiên, ông đã phục theo hình phạt vì những
hành động của ông. Sa-đơ-rắc, Mê-sắc và A-bết-Nê-gô (Đaniên 3) là một trường hợp tương
tự. Phierơ và các sứ đồ (Công vụ các Sứ đồ 5, đặc biệt chú ý câu 29, 40-42) đã từ
chối không vâng theo mạng lịnh cho rằng họ “không được nhơn
danh Chúa Jêsus mà nói” nữa. Câu nói của Chúa chúng ta trong Mathiơ 22.21: “Vậy, hãy trả cho Sê-sa vật gì của Sê-sa; và trả cho Đức Chúa Trời vật
gì của Đức Chúa Trời” chứng tỏ sự thực Cơ đốc nhân thấy
mình đang ở trong hai bầu khí quyển quyền bính. Bất cứ lúc nào hai bầu khí quyển
quyền bính nầy bước vào xung đột, chúng ta phải nói với Phierơ và các sứ đồ: “thà là vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta”.
(2) Một chính quyền có thể đồi bại và thôi không làm tròn
các chức năng thích ứng của nó (nghĩa là, ngăn trở điều ác và khuyến khích những việc lành), thì Cơ đốc
nhân có nên dấn thân vào cuộc cách mạng hòng lật đổ chính quyền ấy không?
Nhiều
trường hợp có thể thấy có trong Cựu Ước, trong dó Chúa dạy cho một cá nhân nổi
loạn nghịch lại chính quyền hiện hữu rồi lật đổ nó. Một trường hợp như thế ở
trong I Các Vua 11 và 12, ở đây Đức
Chúa Trời dạy Giê-rô-bô-am qua tiên tri A-hi-gia phải nổi loạn nghịch lại vương
quốc thống nhất của Sa-lô-môn và 10 chi phái tách khỏi vương quốc. Tất cả các
trường hợp như thế nầy trong Cựu Ước đối với sự hiểu biết của tôi là phù hợp với
sự khải thị trực tiếp của Đức Chúa Trời. Để sử dụng các trường hợp nầy làm phần
biện luận cho sự loạn nghịch ngày nay, chúng ta cần phải bền đỗ và đòi hỏi một
sự khải thị trực tiếp từ Đức Chúa Trời để làm như vậy. Chính mình Đức Chúa Trời
là Đấng dấy lên các vua và hạ họ xuống (Thi thiên 75.7).
Chúng
ta cũng phải nhớ rằng Đức Chúa Trời sử dụng những nhà cầm quyền gian ác, cũng
như những nhà cầm quyền nhơn đức, vì các mục đích của Ngài (đối chiếu Habacúc 1.6-11, Xuất Êdíptô ký 7.1-7, Amốt 6.14). Rôma 13.1 dường như nói rằng bất cứ nhà cầm quyền nào đang tồn
tại, bởi ưu điểm của sự tồn tại của nó, đã được Đức Chúa Trời chỉ định. Muốn chống
cự bất kỳ nhà cầm quyền nào đang tồn tại, bằng cách nổ lực lật đổ nó (nếu giả định trên đây là thực), là chống
cự Đức Chúa Trời (Rôma 13.2). Đức Chúa Trời chẳng có một khó khăn nào trong
việc hoàn thành ý định của Ngài không cần có sự trợ giúp của chúng ta.
Trong
Cựu Ước, Saulơ đã mất đi vương quốc là do ông bất tuân (I Samuên 15) và David được xức
dầu làm tân vương (chương 16). Mặc dù
Saulơ không còn xứng đáng làm vua nữa, David đã chờ đợi cho tới khi Đức Chúa Trời
cất bỏ Saulơ, thậm chí dù ông đã có vài cơ hội để cất bỏ mạng sống của Saulơ (đối chiếu I Samuên 24.1-15; 26.6-12). Chính ước ao của Đức Chúa Trời muốn chúng ta sống
một “đời cho bình tịnh yên ổn” (I Timôthê 2.2, 3). Cách mạng
không dẫn tới bình tịnh yên ổn.
(3) Có phải Rôma 13 hay bất cứ chương Kinh Thánh nào khác dạy
thái độ tiêu cực đối với nhà cầm quyền?
Không.
Hãy nhớ rằng Phao-lô đã từ chối không chịu rời khỏi nhà ngục tại thành Philíp
cho tới chừng ông được hộ tống ra ngoài bởi các quan quyền nào đã đánh đòn và bỏ
tù họ không hợp pháp (Công vụ các Sứ đồ 16). Chúng ta giữ luật bằng cách khăng
khăng gắn bó với nó, thậm chí bởi các quan chức luật pháp.
(4) Một Cơ đốc nhân phải làm gì khi nhà cầm quyền mà Cơ đốc
nhân phục theo đã bắt bớ Cơ đốc nhân theo cách bất công?
Sách
Rôma đã được viết ra trước khi sự bắt bớ nghiệt ngã Cơ đốc nhân bắt đầu, mặc dù
Phaolô đang viết với Nero trong trí. Cả sách I Phierơ đã được viết ra với chính
vấn đề nầy trong trí. Tuy nhiên, Phierơ dạy: “Vì cớ Chúa, hãy phục theo mọi phép tắc loài người lập lên, hoặc
vua, như đấng rất cao, hoặc các quan, như người vua sai ra để phạt kẻ làm dữ và
khen người làm lành” (I Phierơ 2.13, 14). Trường hợp của Phierơ là trường hợp của
hàng tôi tớ, họ cần phải phục theo chủ của họ, thậm chí những người chủ độc ác
nữa (2.18). Chính khi chịu khổ cách bất
công mới là đẹp lòng Đức Chúa Trời (câu
20). Trường hợp tối thượng cho chúng ta là phải làm theo Cứu Chúa của chúng
ta, là Đấng đã chịu chết cách bất công vì cớ tội lỗi của chúng ta (I Phierơ 2.21-25). Sức thúc đẩy của các chương 2, 3, và 4
của thư tín I Phierơ, ấy là chúng ta cần phải nhịn nhục chịu khổ khi bị bắt bớ
cách bất công. Chúng ta phải ghi nhớ lời của Chúa: “Đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ ta, ắt cũng bắt bớ
các ngươi …” (Giăng 15.20).
(5) Có gì sai khi một Cơ đốc nhân hoạt động chính trị?
Trong
Cựu Ước, có nhiều người như Đaniên, Êsai và Giêrêmi (không nhắc đến các vị vua) đã dấn thân vào hoạt động chính trị
trong thời của họ. Trong Tân Ước, một người bị lấn ép nhiều thấy một cá nhân
nên dấn thân vào hoạt động chính trị — mặc dù phải sẵn sàng thừa nhận rằng bàn
bạc trong im lặng là chẳng có gì thuyết phục cả. Trong thần học Cựu Ước, nhà cầm
quyền và tôn giáo (Hội thánh và nhà nước)
không bị phân ra giống như trong Tân Ước.
Nhà cầm quyền
trong thời kỳ Đại nạn. Chúng ta phải dành ra một phút để xem xét sự thiết lập nhà
cầm quyền trong thời kỳ Đại nạn. Nhà cầm quyền được Đức Chúa Trời chỉ định
trong Sáng thế ký chương 9 ngăn trở những dự tính gian ác trong tấm lòng của
loài người. Trong thời hiện tại, nhà cầm quyền ở cấp độ cao hay thấp tiếp tục
thể hiện phần trách nhiệm nầy. Đây là lý do tại sao Phao-lô khuyên Cơ đốc nhân
phải phục theo nhà cầm quyền con người.
Trong
kỳ Đại nạn, thế lực ngăn trở của nhà cầm quyền (như Đức Chúa Trời đã ấn định) sẽ bị cất đi (II Têsalônica 2.6...) và Satan sẽ được phép hoạt động trong
kỳ của hắn. Nhà cầm quyền trong thời kỳ nầy sẽ không tồn tại cho mục đích ngăn
ngừa điều ác, mà để khuyến khích điều ác đó. Nhà cầm quyền như thế sẽ không được
xem là được Đức Chúa Trời mặc lấy ‘uy quyền cho’, mà chỉ được phép tỏ ra điều chi
con người có khả năng làm mà không có ảnh hưởng ngăn trở của Đức Chúa Trời. Nếu
bạo lực chúng ta nhìn thấy ngày hôm nay đang diễn ra bất chấp chính quyền của
con người, hãy suy nghĩ những ngày trong thời buổi đó sẽ ra thể nào!?! Cảm tạ Đức
Chúa Trời, chúng ta sẽ không phải sống một phần trong những ngày gian ác đó: “Vì Đức Chúa Trời chẳng định sẵn cho chúng ta bị cơn thạnh nộ,
nhưng cho được sự giải cứu bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (I Têsalônica 5.9).
Tôi
cầu xin rằng bạn đã đạt tới mức tin cậy nơi Thân Vị và việc làm của Đức Chúa
Jêsus Christ, là Đấng đã chịu chết trong chỗ của bạn và đã gánh lấy án phạt vì
tội lỗi của bạn. Ngài hiến cho bạn sự công bình mà Đức Chúa Trời đòi hỏi để được
sự sống đời đời. Ngài hiến cho những sự giàu có trên thiên đàng thay cho chỗ
hành hình trong Địa ngục. Nguyện Đức Chúa Trời hành động trong tấm lòng của bạn
để tin cậy Ngài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét